LCK 099B - LỢI ÍCH XẢ TÂM - BÀI XẢ TÂM VÔ LƯỢNG ( TỪ QUANG ) - TỨ NIỆM XỨ - THIỀN ĐỊNH
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Thời gian: 23/02/2006
Thời lượng: [1:37:31]
(00:00) Trưởng lão: Hôm nay thì, buổi chiều nay, sẽ có bốn người đến đây Thầy kiểm tra về vấn đề nhiếp tâm trong Tứ Niệm Xứ để dùng Định Vô Lậu để xả tâm.
Thì ở bên nam thì, Từ Thanh Quang, Chân Tịnh, Minh Thống và Từ Quang. Mấy con chiều nay đến gặp thầy, ở đây thầy kiểm tra coi cái sự nhiếp tâm của mấy con coi nhiếp như thế nào đúng, như thế nào sai, để thầy hướng dẫn cách thức nhiếp cho đúng trên Tứ Niệm Xứ - để rồi từ đó chúng ta sẽ áp dụng vào phương pháp tu cho lớp tới là lớp Chánh Tư Duy của chúng ta.
Chiều nay 2 giờ, mấy con đến đây Thầy kiểm tra bốn người, chứ làm nhiều quá Thầy kiểm tra không hết đâu. Kiểm tra từng người, rồi theo dõi cho kỹ rồi mới xác định được sự nhiếp tâm của mấy con có ức chế hay không, ở trên Tứ Niệm Xứ cho cụ thể, rõ ràng. Cho nên nhớ chiều nay.
Còn mấy con vừa nghe đọc bài rồi, các con thấy con người ở trên thế gian này, chúng ta thiệt là thiếu đạo đức quá độ, cho nên chúng ta quá tàn nhẫn. Thầy mong rằng đạo đức nhân bản - nhân quả ra đời được, thì nó sẽ đem lại sự bình an cho con người và loài vật ở trên hành tinh của chúng ta, đem lại tình thương của chúng ta.
Đối với bài vừa rồi của chú Cần, các con thấy nó cũng làm cho chúng ta xúc động với cái tình cảm rất lớn đối với hành động Tâm Từ, rồi còn cái bài Tâm Bi nữa.
Chỉ đọc mới có Tâm Từ thôi thì Thầy thấy rằng chúng ta theo đạo Phật mà thực hiện được lòng Từ Bi thì chúng ta thấy hạnh phúc lắm mấy con. Và đồng thời, cuối cùng thì cái bài Tâm Xả để chúng ta đi sâu vào đạo, để làm chủ sự sống chết của chúng ta, là bài Tâm Xả này.
Mặc dù Tứ Vô Lượng Tâm là Pháp Độc Nhất, nhưng sự thật ra chúng ta chưa có đủ duyên, chưa có đủ duyên mà Pháp Độc Nhất thì chúng ta phải thực hành theo Tâm Xả và trên Tứ Niệm Xứ, theo Thầy thấy tốt nhất.
Cho nên theo Thầy thiết nghĩ ở đây qua những bài mà các Thầy và các cư sĩ đã làm rồi, thì Thầy thấy tốt hơn hết là chúng ta đi từ Thanh Văn mà vào. Cho nên chúng ta đi từ Tứ Niệm Xứ, từ Chánh Niệm chúng ta vào để xả, xả tất cả các chứng ngại pháp trên Thân, Thọ, Tâm của chúng ta thì chúng ta sẽ thành tựu.
(00:02:29) Chúng ta biết cách xả rồi, do đó bây giờ kiểm điểm lại cho sự nhiếp tâm để mà chúng ta tu tập trên Tứ Niệm Xứ. "Lúc mà thân tâm bình thường không có chướng ngại, thì lúc bấy giờ coi cái tâm ở dạng nào, có phải nó ở trong sự chỗ ức chế nó mà ở cái sự im lặng đó không, hay hoặc nó là ở trong sự tự nhiên".
Đó là cái để Thầy kiểm tra lại xem, nếu mà "ở trong sự tự nhiên mà không ức chế thì đó là đúng". Còn nếu mà có sự nhiếp tâm ức chế nào trong đó thì đương nhiên là chúng ta, nó sẽ sai, vì đi tới nữa, kéo dài thời gian ra nữa thì nó sẽ sanh ra những trạng thái tưởng, nó rất khó.
Còn trái lại, nó ở trong trạng thái bình thường; nó không có gì hết, nó không bị ức chế thì nó sẽ đi đến chỗ xả rốt ráo; cuối cùng để chúng ta xả sạch và chúng ta đạt được sung mãn Tứ Niệm Xứ.
Bây giờ, đây là bài của Sư Từ Quang, Thầy mong rằng, nếu mà bây giờ có thì giờ, thì chúng ta sẽ tiếp tục chúng ta đọc để biết được cách thức. Mà ở đây theo khuôn mẫu của Phật giáo, đã nói lên những Tâm Xả của chúng ta, mà sư Từ Quang có sự nghiên cứu kỹ ở trên những Kinh Nguyên Thủy viết ra. Cho nên, nó không có lệch, cho nên lời phê của Thầy như thế này: “Bài làm Đức Xả Tâm vô lượng đầy đủ, ngắn gọn, dễ hiểu, nhất là theo thứ tự xả tâm. Từ xả tâm thế gian đến xả tâm xuất thế gian. Đâu đâu đều rõ ràng, cụ thể trong các pháp hành theo thứ tự Bát Thánh Đạo, không sai Phật giáo Nguyên Thủy"
(00:04:19) Trưởng lão: nghĩa là Thầy Từ Quang không sai theo Phật giáo Nguyên Thuỷ. Còn không khéo thì chúng ta làm, thì coi chừng nó lệch lạc hoặc là coi như là theo cái khuôn của Phật giáo mà chúng ta làm. Bài này nó là cái khuôn. Vậy thì Sư Từ Quang, con hãy đọc cái bài của con để giúp cho mọi người có cái ý, để rồi từ đó chúng ta làm theo nó không sai cái dàn bài.
Đây là những cái bài chót, lần lượt trong những cái ngày mà Thầy kiểm tra như thế này thì chúng ta. Những cái bài nào cần thiết, Thầy sẽ cho đọc để chúng ta rút kinh nghiệm, đồng thời thì sẽ xả tâm.
Bởi vì mình phải hiểu biết để rồi mình xả tâm để mình tu - còn cái hiểu biết mà không chịu tu tập thì nó là lý thuyết suông. Còn cái này hiểu biết để chúng ta xả tâm; có nhiều người thì chưa có rành mạch, chưa hiểu biết, thành ra cũng không biết xả tâm, thì coi chừng bị ức chế. Bây giờ chúng ta đọc để mà chúng ta tích tập cái sự hiểu biết đó.
Sư Từ Quang: thưa Thầy, con đọc luôn cái dàn bài?
Trưởng lão: con đọc luôn cái dàn bài đi!
(00:05:31) Sư Từ Quang: Kính bạch Thầy! Kính thưa quý vị đại chúng, con xin phép đọc bài Xả Tâm Vô Lượng.
(00:05:45) Dàn bài này gồm có 3 phần:
Phần thứ nhất là định nghĩa,
Phần thứ hai là những lĩnh vực xả tâm,
Phần thứ ba là kết luận
Trong phần hai về lĩnh vực xả tâm được chia làm hai phần nhỏ là:
Xả tâm bằng pháp Hữu Lậu
Xả thứ hai là xả tâm bằng pháp Vô Lậu
Phần xả tâm bằng pháp Hữu Lâu thì có tất cả bảy điểm:
- Thứ nhất là: xả tâm tham đắm sắc dục
- Thứ hai là: xả tâm vô lượng của báu, vàng bạc, của cải
- Thứ ba là: xả vô lượng tâm danh
- Thứ tư là: xả vô lượng tâm ăn
- Thứ năm là: xả vô lượng tâm ngủ; trong chỗ tâm ngủ này có 3 điểm: một hôn trầm thùy miên, hôn tịch, hôn ký, ngoan không và nguyên nhân của buồn ngủ và cách xả vô lượng tâm ngủ
- Thứ sáu của pháp Hữu Lậu là xả Năm Dục Trưởng Dưỡng: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
- Và điều thứ bảy cuối cùng là xả tâm vô lượng trong hạnh bố thí, cúng dường
Về phần thứ hai về lĩnh vực xả tâm là xả tâm bằng pháp Vô Lậu thì tất cả có mười một điểm:
(00:07:06)- Thứ nhất là: xả tâm tham, sân, si với ý hành, khẩu hành, thân hành
- Thứ hai là: xả tâm năm triền cái dục tham, sân, hôn trầm, trạo hối, nghi
- Thứ ba là: xả tâm về năm thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức
- Thứ tư là: xả tâm năm hạ phần kiết sử: tham, sân, thân kiến, giới, nghi
- Thứ năm là: xả tâm năm thượng phần kiết sử: sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh
- Thứ sáu là: xả tâm trong giới phòng hộ các căn
- Thứ bảy là: xả tâm với Tâm Xả trong kinh Bát Thành
- Thứ tám là: xả tâm Sơ Thiền lên Nhị Thiền
- Thứ chín là: xả tâm từ Nhị Thiền lên Tam Thiền
- Thứ mười là: xả tâm trong Tam Thiền
- Thứ mười một là: xả tâm trong Tứ Thiền
- Thứ mười hai là: xả tâm trong Tứ Niệm Xứ
- Và mười ba là: xả tâm của Xả Giác Chi.
Phần thứ ba là kết luận: Lợi ích của xả tâm.
(00:08:33) 2.1. Định nghĩa: xả tâm
Xả có nghĩa là bỏ ra, không dùng nữa, không cất chứa, không dùng tới, không còn ham muốn thủ giữ, buông bỏ không tiếc nuối, không chất chứa thương ghét, giận hờn cũng không sinh khởi vui, thích thú theo đối tượng nào theo pháp nào. Như vậy xả có ý nghĩa tâm lý và thực hành thực tế - không còn dính mắt trong hai lĩnh vực: vật chất và tinh thần.
Vật chất là năm dục lạc thế gian: tài lợi, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống và ngủ nghỉ và sáu đối tượng làm sáu căn dính mắc: về hình tướng, âm thanh, mùi hương, vị ngon, thân xúc chạm và lĩnh vực tinh thần là những kiến chấp về tư tưởng, học thuật.
Nói xả là buông bỏ những cái gì mình đang hiện có, chứ không phải cái đã có trước đây mà nay không còn nữa. Hay cái mong cầu mà chưa có, không thể có được. Nhưng chính cái tâm ý mong cầu đó, cùng với cái dính mắc cần phải xả bỏ, cái tâm niệm cũ, những hình ảnh quá khứ, cũng là điều dính mắc cần phải buông xả, lòng mong muốn, ý mong cầu mơ mộng cũng thế buông xả hết. Buông xả tận cùng là không còn chấp giữ trong tâm bất kỳ mục đích nào đã thành đạt hay chưa thành đạt.
Có thể nói buông xả quá khứ, buông xả vị lai và buông xả cả hiện tại, với tư niệm của bản thân. Vậy thì còn cái gì? Chỉ còn công việc làm ngay hiện tại, đúng cách thức của nó mà không chấp giữ nó, cũng như kết quả mà nó có thể đem lại.
Thí dụ: như chúng ta đi kinh hành thì chỉ đi biết đi nhẹ nhàng, đi thoải mái, đi đúng với sự đi kinh hành mà không có tư tưởng mong cầu cái gì khác, ngoài cái biết đang đi.
Người tu hành khi bản thân có những chứng đắc, những kinh nghiệm tu tập mà chấp chặt theo, mang nặng cái đó, vui thích với chúng mà quên lãng pháp tu là đã bị dính mắc. Nếu không biết để tự buông xả thì khó thể nào tiến xa trên đường giải thoát.
(00:10:52) Ngày xưa, Ngài Anuruddha đã bị sai lầm dính mắc vào những chứng đắc cùng những tâm đắc về công hạnh của mình mà không thể tiến xa hơn để chứng đắc rốt ráo vô lậu. May nhờ có Ngài Sariputta chỉ dẫn cho mới buông xả được, ta hãy nghe các câu hỏi, đáp giữa hai Ngài.
Ngài Anuruddha hỏi: “ Thưa Tôn giả Sariputta với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân; tôi có thể niệm một niệm thế giới, phấn chấn là tinh tấn của tôi, không có thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được Định Tĩnh, nhất tâm, tuy vậy tâm tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có không chấp thủ”.
Ngài Sariputta trả lời: “ Này hiền giả Anuruddha, hiền giả suy nghĩ như sau: với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên; tôi có thể niệm một ngàn thế giới, ấy là kiêu mạn của hiền giả. Này hiền giả Anurruda, hiền giả suy nghĩ: như sau phấn chấn là tinh tấn của tôi, không có thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được Định Tĩnh, nhất tâm, ấy là trạo cử của hiền giả. Này hiền giả Anuruddha hiền giả suy nghĩ như sau: tuy vậy tâm của tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ, ấy là hối quá của hiền giả. Lành thay! Nếu Tôn giả Anuruddha đoạn trừ ba chấp pháp ấy, không tác ý ba pháp này, hãy chú tâm vào giới bất tử”, đó là trích trong Tăng Chi Bộ, ( chương Ba Pháp Kinh trang 128 )
Như vậy, ta mới thấy được xả bỏ tâm rốt ráo, giúp cho người tu tiến xa trên đường đạo. Vấn đề ở đây cần xác định "là chỉ xả những pháp nào được xem là bất thiện, hay thật sự bất thiện, thật sự lỗi lầm hay được xem là có lỗi lầm, những pháp nào không nên tu hành, hay được xem là không nên tu hành, những pháp không xứng đáng bậc Thánh, hay được xem là không xứng đáng bậc Thánh, những pháp ô nhiễm, hay được xem là ô nhiễm". ( Như đức Phật đã dạy trong Kinh Trung Bộ, kinh 08, Đại Kinh Sư Tử Hống )
(00:13:40) “_Này Kasapa, và sự tình này xảy ra. Khi các vị có trí hỏi nhau, tìm hiểu và đàm luận với nhau. Các vị này nói: những pháp bất thiện, hay được xem là bất thiện, những pháp lỗi lầm, hay được xem là lỗi lầm, những pháp không nên tu hành, hay được xem là không nên tu hành, những pháp không xứng bậc Thánh, hay được xem không xứng với bậc Thánh, những pháp ô nhiễm, hay được xem là ô nhiễm. Sa Môn GOTAMA đã hoàn toàn xả ly những pháp ấy” _
Tiêu chuẩn nào xác định tính chất bất thiện, hay không bất thiện, có lỗi lầm, hay không có lỗi lầm, nên tu hành, không nên tu hành, ô nhiễm, hay không ô nhiễm, xứng đáng bậc Thánh, hay không xứng đáng bậc Thánh của các pháp để xả không, hay không nên xả. Trong tất cả các pháp môn đức Phật đã dạy, không có pháp môn nào ngoài sự hiểu biết của con người. Pháp môn nào cũng đều căn cứ trên kinh nghiệm thực nghiệm chính bản thân đức Phật, mà khi được dạy, thì các Tỳ kheo cũng chính mình tự rút ra kết quả trong khi thực tu, thực nghiệm, chứ không phải được hiểu biết qua đường lý thuyết lý luận suông.
Cho nên xả tâm phải được tu tập trong kinh nghiệm, nếu ở đây loại xả nào có thể biết được, khi tôi thân cận với xả này bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm thì xả ấy cần phải tránh xa. Ở đây loại xả nào có thể biết được, khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng thời xả ấy nên thân cận. Ở đây có xả câu hữu với tầm, với tứ, có xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ, các loại xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ, thì thù thắng hơn
(00:15:41) Trưởng lão Thông Lạc khuyến khích mọi người hãy sáng suốt xả bỏ chấp thủ mọi pháp thế gian để tâm được an vui tự tại như sau:
“Buông xuống đi! buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì
Thở ra chẳng lại còn chi nữa
Vạn sự vô thường, buông xuống đi!”
Người đời tranh giành chiếm đoạt đủ thứ trong cuộc sống; thấy người khác có mà mình chưa có thì tham đắm ưa thích, ganh tỵ với người; sinh tâm chiếm hữu, cố gắng công sức để có như người, bằng người; hay hơn người. Không đạt được thì buồn rầu, thất vọng, chán nản, u sầu; đạt được thì mừng vui hớn hở, hãnh diện, kiêu căng, hợm hĩnh, thủ đắc lâu ngày sinh tâm chán ghét, coi thường như ví dầu có ai cần đến, hỏi xin thì nhất định không cho, không muốn rời xa, lòng thường ích kỷ, nhỏ hẹp; chỉ biết thu gom cho nhiều của cải của thế gian. “Vật dự trữ không bao giờ thừa” là châm ngôn của họ.
Do lòng tham muốn, chấp thủ, mà họ không sanh khởi được lòng vị tha, thương người, giúp người, bố thí cái mà người đang thiếu, đang cần. Đó là nghĩa của xả tâm vật chất, những pháp Hữu Lậu :
(00:17:12)"Ta không thấy một sắc nào, hấp dẫn người đàn ông, như sắc của người đàn bà và ngược lại. Ta không thấy một sắc nào, hấp dẫn người đàn bà, như sắc của người đàn ông". Đức Phật đã xác định như vậy quả không sai, môi trường đã sinh ra nam, nữ thì chúng có sức hấp dẫn nhau để tạo duyên nhân quả tái sanh. Cho nên xấu, thô xấu như Chung Vô Diệm mà Tề Tuyên Vương vẫn cần đến và gần gũi được trong lúc thiếu người đẹp; là một minh chứng hùng hồn nhất của sự hấp dẫn nam, nữ.
Bởi vậy, sắc dục rất khó xả nếu không hạ quyết tâm, kiên trì, cố gắng vượt thoát khỏi sức tác động của môi trường. Chính môi trường tác động lên cơ cấu hữu cơ của mỗi sinh vật, để cơ thể sinh vật sản xuất những nội kích thích tố khiến tinh thần bị thúc bách, thực hành phối hợp âm dương nam, nữ trong giai đoạn trưởng thành của sinh vật.
Và yếu tố làm phát khởi nhu cầu tham đắm sắc dục chính là sự có mặt đồng lúc cả hai phái tính nam, nữ của sinh vật ở vào thời kỳ cần thiết phối giống. Nếu chỉ có một phái tính có mặt trong phạm vi không gian nào đó, thì nhu cầu bị chìm vì không có đối tượng để lòng tham đắm sắc dục đã được nuôi lớn và thực hành, “tuy nhiên không phải bị triệt tiêu; chúng vẫn ngủ ngầm trong cơ thể chờ cơ hội thức dậy vào lúc cần thiết”
Trong thiên nhiên ta thấy các loài thú vật, con giống đực luôn luôn đòi hỏi sắc dục, nhưng con cái chỉ đòi hỏi trong thời kỳ thụ thai thôi.
Ví dụ loài chó ta nuôi trong nhà, phần lớn là chó đực chúng chỉ sanh khởi đực tính khi nào con chó cái ở vào thời kỳ cần phối hợp thụ tinh hiện diện trong phạm vi chúng đang sống. Nếu chưa tới thời kỳ này, thì cả hai phái tính đó cùng có mặt, nhưng không phát sinh nhu cầu.
(00:19:23) Đây là trường hợp của sinh vật, chỉ có nhu cầu phối giống theo bản năng sinh tồn mà không có ý chí khai thác thọ hưởng sự tham đắm, cảm giác sắc dục như là con người. Trong tất cả các loài động vật, chỉ có con người là loài có nhu cầu sắc dục mạnh mẽ, là không có bị giới hạn vào thời kỳ thụ thai, ngoại trừ thời gian rất ngắn trước và sau thời kỳ sinh sản của phái nữ.
Việc sắc dục của phái nữ rất mạnh, nếu cuộc sống lứa đôi bị đứt quãng giữa chừng trong giai đoạn cường tráng, cuối từ 25 đến 50 tuổi, thì thường có một số người nữ bị biến chứng tâm lý, thay đổi tính tình. Có một số trường hợp bị chứng mất ngủ và nhức đầu, đau đầu rất nặng, rất là tội nghiệp.
Cho nên muốn xả bỏ tâm tham đắm sắc dục, ta cần quán chiếu thật sâu sắc tính chất khổ đau của việc nhân quả luân hồi, thấy cho được sắc dục là con đường bất tịnh, uế trược, thối tha, bẩn thỉu. Sắc dục chỉ là con đường sanh con đẻ cái, khổ đau nối tiếp, cực nhọc không dứt. Sắc dục làm cho chúng ta ô minh tham đắm một cách ngu si để chịu sự chi phối của Ma vương.
Phải tác ý thường xuyên câu: “ Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đau khổ từ kiếp này, sang kiếp khác. Ta hãy xả bỏ, từ khước, thoát ly ra khỏi, từ giả, không nên để tâm vướng mắc nó nữa”. Để dứt trừ cho được tâm tham dục, truyền thừa từ vô thuỷ tổ tiên.
Phải biết rằng, đây là công việc rất là khó nhọc. Nếu không kiên trì, không chuyên cần tác ý thường xuyên và quán chiếu sắc thân bất tịnh như thật cho được, thì không thể vượt thắng tâm tham đắm sắc dục.
(00:21:25) Nếu câu tác ý trên chưa đạt được kết quả thì tác ý hướng tâm câu: “ Sắc dục là bất tịnh, uế trược, nhớt nhao, hôi thối, khó chịu vô cùng, tạo muôn ngàn bệnh tật tai ương, truyền nối nhau nhân quả luân hồi từ kiếp này, sang kiếp khác không bao giờ dứt. Một người để lại muôn người khổ, nối tiếp nhau vô cùng tận. Hãy xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, sắc dục như rắn độc, như ung nhọt, nó là nguy hiểm, nó là tai hoạ, là ác độc, là đường bệnh tật truyền nhiễm, nan y, như bệnh liệt kháng, bệnh si đa. Dứt trừ, dứt khoát từ bỏ”.
Câu này do Trưởng lão rút từ kinh nghiệm tu trì của người, dạy lại cho chúng ta. Chúng ta phải đặt niệm trước mặt, phải dùng pháp hướng, phải Như Lý Tác Ý thật mạnh như truyền lệnh thì may ra mới xả tâm ái dục được, mới thấy được con đường giác ngộ rộng mở. Tác ý xong câu này, ta ngồi yên lặng giữ tâm thanh thản, một lúc sau lại tác ý nữa, tác ý cho đến khi tâm ta xa lìa sắc dục, hoảng sợ sắc dục, không dám khởi tâm thấy nghĩ về nó. "Ta phải tu tập hoài để cho ý thức ly tham dục, thấm tận xương tuỷ, mới hy vọng phá trừ được bản năng sắc dục, chứ không phải mà ngồi yên rồi thấy khinh an, hỷ lạc mà cho là tốt".
Trong Kinh, khi Ngài Ananda hỏi: “Có thái độ như thế nào khi đối tiếp với nữ sắc, đức Phật dạy: đừng gặp mặt, nếu buộc gặp mặt; đã gặp mặt, thì đừng nhìn; nếu đã nhìn, buộc phải nhìn, thì đừng nói chuyện; nếu đã nói chuyện, buộc phải nói chuyện, thì đừng tác ý tà bậy”. Cho nên trong giai đoạn tu tập, ta cần phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Thì phải sống độc cư là pháp phòng hộ tối thượng là vậy. (Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Tập III, Chương 7 Pháp, Kinh 47. Liệt kê những điều kiện cho biết giới sắc chưa được giữ vẹn toàn khi :
(00:24:02)
Được nữ nhân xoa bóp, tắm, sức dầu.
Cười giỡn chơi đùa với nữ nhân.
Trừng mắt nhìn theo nữ nhân.
Ưa nghe tiếng nữ nhân nói, cười, hát, khóc.
Nhớ lại chuyện của nữ nhân trước đây đã cười đùa với mình.
Trong tâm thích thú, ước muốn bị kích thích bởi nữ nhân.
Thấy người khác đang thọ hưởng sắc dục.
Sống tu với ước muốn sanh về cõi Trời để thọ hưởng dục, chư Thiên có Tiên nữ.
Những ai có hệ luỵ với những trường hợp này, đều không thể thoát được khổ đau, sanh tử luân hồi. Khi dứt trừ được tất cả những trường hợp nêu trên, mới có thể xem là giới dứt trừ sắc dục được hộ trì.
Ngày nay do phương tiện phim ảnh, tivi, báo chí, sách vở và mạng Internet toàn cầu chứa đựng nhiều hình ảnh, nhiều mô tả khiêu dâm, gợi dục, làm cho tâm trí hầu hết những người tiêu thụ phương tiện nói trên bị đầu độc dâm dục nặng nề.
Những ai muốn tu theo hạnh Thánh của đạo Phật cần phải quyết tâm cao để tự mình giữ gìn nghiêm chỉnh giới dút trừ sắc dục và phải nhờ vào những phương cách được đức Phật chỉ dạy, và nay được Trưởng lão Thông Lạc triển khai, ứng dụng, bằng những câu hướng tâm Như Lý Tác Ý, để tận trừ tâm dâm dục từ căn gốc sanh khởi của chúng. Không dùng pháp môn Như Lý Tác Ý thì không có cách nào thắng được tâm tham đắm sắc dục này, và còn đi vào đường sai lạc ức chế tâm rất nguy hiểm cho tinh thần và cơ thể.
Cuộc đời tu hành là cả một công trình cố công gắng sức cật lực dài lâu, chứ không thể nói suông, tu lơ mơ mà đạt kết quả được. Trưởng lão Thông Lạc thường nói: "nếu không một lần chết, thì không thể nào chứng đạo, để nói lên sự thật vô cùng khó khăn cam khổ, sẵn sàng dùng cái chết và chỉ có dám chết mới vượt qua cửa ải cuối cùng để vào cảnh giới an vui bất tử".
(00:26:30) Không tham đắm tài sản của cải, vàng bạc, châu báu, cũng phải xả bỏ, xả bỏ tâm này cũng khó khăn không kém gì việc xả bỏ tâm sắc dục nói trên. Chúng ta ngay từ những ngày đầu có tư tưởng là có ý chấp thủ, chấp chứa, thù giữ.
Hãy nhìn xem một bé đang bú mẹ, miệng đang bú vú này, mà tay nọ giữ vú kia; bất ngờ có bé khác mà mẹ nó muốn cho bú thì nó tỏ thái độ chống đối, khóc la, không bằng lòng - mà còn đánh đuổi bé kia đi nơi khác không cho đến gần mẹ nó. Chính nó là nghiệp thức chấp thủ từ vô lượng kiếp, huân tập vào tâm. Khi chúng ta lớn lên ý thức chấp thủ càng hiện lộ, với nhiều hình thức theo nhiều đối tượng và ý thức này được trưởng dưỡng thêm vững chắc qua sự giáo dục, từ trong gia đình, cho đến ngoài xã hội.
Trong gia đình ta giữ gìn vật dụng của riêng ta, của cải của mẹ cha. Ngoài xã hội thì được dạy phải phấn đấu tranh giành, tranh danh đoạt lợi cho nhiều. Đi học thì phải hiểu biết hơn người mới được xếp hạng cao. Ra đời thì phải có chức tước, địa vị trên người. Từ đó ta mới thụ hưởng lương, tiền, tài sản nhiều, nhà cửa cao sang, đồ đạc quý giá mắc tiền. Tự mình hoặc ai khác lỡ tay làm bể, làm hư một món nào, thì tiếc nuối, sân hận suốt thời gian dài.
Nhiều khi mất ăn mất ngủ, tằng tiện, chắt chiu, tiết kiệm đầu này, nhịn ăn đầu nọ, để có tiền mua sắm vật dụng thời trang, xe cộ, máy móc, tivi, tủ lạnh, vi tính, giường tủ bàn ghế.
Tiền nhiều thì mua sắm vàng lượng, bạc khối, châu báu, kim cương, hạt xoàn năm mười kara cất giữ, vòng kiềng, dây vàng, chuỗi ngọc trưng diện đeo mang khoe khoang. Càng có nhiều tài vật của cải thì tâm tham đắm chúng càng nhiều, càng đậm, càng bị hệ luỵ vướng mắc, lo thủ giữ quá đến độ ngủ không yên giấc, mơ cũng thấy bị trộm cướp, bị lụt nước cuốn trôi, bị cháy nhà thiêu mất sạch tài sản.
(00:29:01) Trong đời không thiếu những việc người này hay kẻ khác chỉ vì chút tài lợi nhỏ nhoi đã hy sinh tất cả để cố chiếm đoạt, thậm chí quên luôn cả sự an toàn mạng sống của mình. Và khi đã có trong tay thì liều chết để bảo vệ, như trường hợp những người thà chết chứ không để bị cướp giật, của cải, tài sản. Chỉ có những người dũng tâm, dũng trí đi vào đường đạo mới đoạn từ, mới vứt bỏ được tâm chấp đắm những tài vật do công sức mồ hôi, nước mắt và thời giờ quý báu để tạo dựng chúng.
Nhưng nếu không có phương pháp, không hiểu sâu xa ý nghĩa của quy luật vô thường biến đổi thì khó thể nào buông xả tâm chấp đắm vật chất này được.
Thường ngày nên ngồi kiết già, đặt niệm từ bỏ của cải, tài sản trước mặt, trạch pháp câu pháp hướng tác ý sau: “Tiền bạc của cải châu báu là những thứ vật chất lôi cuốn ta rất mạnh, làm cho tâm ta ưa thích, say mê mà chạy theo, tạo ra biết bao điều tội ác. Hạt cơm ta ăn hằng ngày đã đánh đổi bằng cái chết của biết bao côn trùng khi nông dân cày bừa, khi phun thuốc diệt trừ sâu rầy ruộng lúa. Nghề nông lương thiện mà còn mang nghiệp sát sanh, huống là những nghề thiếu lương thiện thì việc lừa gạt xâu xé, hãm hại nhau tệ hại vì đồng bạc làm sao mà tránh khỏi”
Hoặc câu khác thích hợp với tâm trạng của ta, làm sao ta có hiệu quả, làm ta từ bỏ lòng ham thích, đắm chấp, theo đuổi thủ đắc tài lợi, tiền bạc, vật chất như câu: “Tiền bạc, của cải, châu báu thế gian là tên chủ độc tài, chúng sai bảo ta làm bất cứ việc gì mờ ám ta cũng vâng theo, tạo ra rất nhiều tội lỗi. Vậy ta hãy xa lìa, từ giã ông chủ này, để thoát kiếp nô lệ”
Đã bỏ hết những tài sản thế gian mà đi tu thì phải noi theo gương hạnh của đức Phật, Ngài đã vứt bỏ không chút ngần ngại ngai vàng, quyền lực đệ nhất thế gian; những cảm giác êm đềm hạnh phúc đời vương giả bên vợ con mà cương quyết sống đời tu hành thiếu thốn, khổ hạnh đơn độc trong rừng già. Đến lúc chứng đạo, thành đạt đạo quả cũng chỉ ba y một bát, ngày khất thực ăn một bữa ngọ, mặc dù nhiều vua chúa giàu của nhiều tiền muốn được cung phụng, cúng dâng. Biết bao chủ giáo Bà La Môn danh tiếng triệu phú là đệ tử của Ngài, cũng chẳng lay động tâm họ hưởng một đời sống sung sướng.
(00:31:55) Chúng ta cũng đừng thấy gương Thầy Tổ ngày xưa, cũng như hôm nay tu hành chẳng chứng đắc gì mà nhờ vào quần chúng Phật tử để sống đời giàu sang, chùa to lớn, Phật to, tiện nghi hiện đại, quên đi giới hạnh của người tu” xả phú cầu bần”.
Chúng ta hãy giữ gìn giới luật tinh nghiêm, chuyên cần tu tập theo lời dạy và gương hạnh của bậc Tam Minh Thích Thông Lạc, chân thật chứng đắc thiền định sâu mầu, vị Thầy của chúng ta ngày nay
Nên nhớ nằm lòng như vậy: “Người tu hành mà có nhiều tiền lắm bạc, tiếp nhận của cải vật chất thế gian, thì một mặt vi phạm giới luật Sa di, Tỳ kheo. Mặt khác, đó là mồi nhử của ác ma, khiến ta sẽ bất an, sợ trộm cắp, sợ cướp giật, sát hại mạng sống của ta và làm mất an tịnh. Tiền bạc khiến ta không thu thúc lục căn, không xả bỏ tâm tham dục, ta dễ khởi tâm hưởng thọ do tiền bạc đem lại”.
Hoặc ta tác ý câu: “ Tài sản, của cải, vật chất thế gian là rắn độc, là ung nhọt, là bệnh truyền nhiễm. Ta hãy tránh xa nó, không được cất giữ, không được tích trữ”
Phải tác ý thường xuyên cho đến khi thấy tâm ta được an vui, mặc dù không có một đồng nào trong tay, không ham thích tiền bạc, thấy sợ hãi trong việc thủ giữ tiền bạc, tài vật của người nào khác. Ngoài ba y một bát, mà ngay cả y, bát ta cũng không quá quan tâm y tốt đẹp, y quý giá, bát đẹp hay xấu, chỉ có thể có y để che thân, chỉ có bát để đựng thức ăn bữa ngọ.
(00:33:50) Danh là một sự cám dỗ rất mạnh làm tâm ta mờ mịt, khó phân biệt phải, trái, thiện, ác. tâm cầu danh rất khó dẹp trừ; nó ẩn núp dưới nhiều chiêu bài, nhiều mặt nạ.
Trước tiên, danh là một chức vị kèm theo quyền lực và quyền lợi, danh này trong đời và trong đạo đều có; nó được hành xử bằng sự thay mặt trong một tập thể cụ thể hay trừu tượng.
Thí dụ vị trưởng một tỉnh thành thì thay mặt của tỉnh thành đó để hành xử chức năng và quyền lực của tỉnh thành, buộc tất cả cư dân trong tỉnh thành phải tuân thủ theo. Hay vị chức sắc tôn giáo của một khu vực, thì lãnh đạo tinh thần cho toàn thể tín đồ trong quản hạt; một tiếng hô, một lần truyền thì toàn thể tín đồ răm rắp nghe theo.
Trong lĩnh vực quân đội thì không ai phủ nhận được danh kèm sát quyền uy trên một tập thể quân nhân, buộc họ tuân hành đúng theo kỷ luật quân đội. Tùy theo cấp bậc tức là danh lớn hay nhỏ mà có quyền chi phối đến tập thể quân đội lớn hay nhỏ. Cấp bậc càng lớn thì quyền uy càng nhiều, càng to. Vị chỉ huy quân đội toàn quốc thì quyền uy liên hệ đến an nguy của toàn biên cương lãnh thổ. Nhưng vị lãnh đạo chính trị thì danh và quyền chi phối toàn dân trong danh nghĩa được nhân dân tín nhiệm, giao cho trọng trách điều khiển an ninh trật tự và tiến bộ xã hội theo định hướng nào đó trong chương trình kế hoạch toàn quốc đã được đề ra.
Danh là thể hiện uy tín của một người hay của một tập thể. Thí dụ học vị tiến sĩ, bác học nói lên khả năng hiểu biết do học tập, do tìm tòi, khảo cứu chuyên môn; cho nên lời phát biểu trong lĩnh vực chuyên môn của họ có giá trị ngang bằng sự hiểu biết cả đời của họ khiến cho người ta dễ tin theo. Một vị Tiến sĩ Phật học thuyết trình về một đề tài Phật pháp nào đó, rất dễ hướng dẫn thính giả thiếu kinh nghiệm tự thân tu chứng theo quan điểm đang trình bày vì những lập luận có vẻ hợp lý; họ lý luận bằng những dẫn chứng chỗ này, chỗ kia trong rừng kinh sách mâu thuẫn nhau của thư viện Phật học phát triển.
Danh nhỏ nhất là của một con người; nó là sĩ diện, là tiếng tăm, là phẩm hạnh, là tư cách của cá nhân đó. Danh này nếu bị xúc phạm, bị chà đạp thì người này cũng phản ứng để bảo vệ, để phục hồi, phục hận qua những hành động được xếp vào tham, sân, si.
(00:36:47) Theo đạo Phật, danh là thứ dục nuôi lớn bản ngã con người. Danh càng cao thì bản ngã càng lớn; bản ngã càng lớn thì tham, sân, si càng nhiều, mới vào tu học làm chú Sa di thì thủ lễ nghiêm túc với Phật tử, kính trên, phục vụ tôn trưởng, nghe lời, dễ dạy. Một thời gian sau học hành cấp bằng này nọ, danh xưng Đại đức, Thượng Toạ, giáo phẩm cao to, thì đi đứng bệ vệ oai nghi, bảo thủ ý kiến, đổi thay thái độ ứng xử với mọi người, xem nặng Phật tử giàu sang cúng dường tiền tài lớn, xem nhẹ Phật tử nghèo, nói năng thiếu tính ôn tồn nhã nhặn. Thường có tâm đòi hỏi mọi người phục vụ cho mình tiện nghi này nọ, không còn giữ giới thiểu dục tri túc của những ngày đầu, càng thuyết giảng nhiều thì càng tưởng mình chỉ cần lão thông kinh kệ, lấy đó làm công hạnh tu hành mà lãng xao xả tâm tu hành thiền định, là công đức chính của đường lối tu tập Phật giáo.
Cho nên người quyết tâm tu giải thoát sẽ rất sợ những tâm danh dưới bất cứ chiêu bài gì: là nhà từ thiện, là Đại đức, là Thượng toạ, là Giảng sư thuyết pháp, là bậc tu chứng, là Vị Thiền sư, v. v. Tất cả phải được xả hết không vướng mắc bất cứ danh xưng nào, tâm sẽ bất động trước mọi cám dỗ, mọi chiêu bài xưng tán.
Nên tác ý: “Danh tạo nên dục lạc ảo giác, nuôi lớn bản ngã, nuôi lớn kiêu mạn, chỉ làm tâm ta thêm đau khổ, đưa đến tranh cãi, lý luận, phiền não. Ta hãy xả bỏ , từ bỏ, chỉ yên tâm tu hành thanh tịnh để sớm ra khỏi sanh tử luân hồi”.
Hoặc tác ý câu: “Danh chỉ là hảo huyền, không có thật, nó là tên giặc thường làm tâm ta mê loạn mà hiện ra những hạnh xấu: tự đắc, tự cao, tự đại, ngã mạn, cống cao. Nếu có danh ta cũng phải xem là không có thật, ta chỉ là một người bình thường như bao nhiêu người khác thôi”.
Hãy tác ý câu sau để giải trừ tâm kiêu mạn: “Danh là một dục lạc vô hình; nó thu hút, cám dỗ ta rất mạnh khiến ta thêm ngã mạn, cống cao; do đó sinh ra ngũ triền cái: tham, sân, si, mạn, nghi. Danh khiến cho con người triền miên đau khổ; vậy ta hãy kiên quyết từ bỏ, viễn ly, xa lánh cái danh”.
(00:39:39) Tâm lý con người rất ham thích danh, nên là người đã dứt bỏ hết để tu hành thì đừng để nó có cơ hội chiếm ngự tâm, phải cẩn thận cảnh giác từng tâm niệm để giữ tâm bất động, dù có được chút gì chứng đắc cũng đừng nghĩ ta sẽ có danh này kia, không khéo thì bản ngã sẽ đồ sộ theo cái danh tưởng tượng đó, huống nữa là được mọi người biết đến và có danh thực. Hằng ngày đặt niệm trước mặt hướng tâm tác ý những câu trên hay đặt ra những câu nào thích hợp với ta để diệt ngã xả tâm
Có thể câu sau đây cũng có tác dụng làm tâm ta xa lìa danh vọng: “Danh là một dục lạc có ma lực vô hình, cám dỗ, lôi cuốn con người vào vòng sanh tử luân hồi. Vậy ta phải từ bỏ, phải viễn ly, xa lánh cái danh dù bất cứ trường hợp nào”.
(00:40:38) Ăn là một nhu cầu tự nhiên của sinh vật, thu nhập năng lượng trong thức ăn để bù đắp năng lượng tiêu hao trong tiến trình sống, đồng thời cung cấp năng lượng đủ để cơ thể phát triển thể lực và tinh thần. Không ăn thì chết; không được ăn đầy đủ thì cơ thể teo tóp, ốm yếu, suy dinh dưỡng, dễ bị bệnh tấn công, bệnh còi xương, mất sức, thiếu tinh thần năng nổ, thiếu sức lực cơ bắp.
Khi đói tay chân thường run, không làm việc nặng được, dễ buồn ngủ. Ăn uống phải đúng giờ, không nên ăn uống phi thời, lúc nào cũng ăn thì lúc nào cũng dễ bị cơn đói hoành hành, làm suy yếu tinh thần chịu đựng, suy yếu ý chí phấn đấu, khắc phục ác pháp khi chúng đến, dễ làm tâm hoảng loạn.
Khi ăn thấy món này ngon, món kia dở, là do vị giác tác động sinh nhận thức phân biệt; đó là chuyện bình thường; nhưng để tâm tham đắm cái ngon, mong cầu được ăn món ngon, chán ghét cái dở, không ăn được món dở là đã bị cái ngon, cái dở chiếm ngự tâm, chi phối tâm. Không chế ngự lưỡi, không chế ngự vị giác, nuông chiều vị giác, chạy theo món ngon này, món nọ là không tu hành, không giữ thiền định, không an trú tâm trong Bốn Niệm Xứ để khắc phục tham ưu.
Người tu hành ăn là để chữa bệnh đói chứ không phải chạy theo dục ăn; cho nên ăn không cầu ngon, không ngán dở, có gì ăn nấy; hôm nay đề nghị nấu món này; mai yêu cầu nấu món nọ, còn mong muốn, còn đòi hỏi, yêu cầu. Đó là tâm ý của người phàm tục, còn hệ luỵ tới cái ăn, chứ không phải là người đang tu Thiền Định, đang giữ gìn giới luật, đang chế ngự điều phục tâm.
(00:42:41) Kinh dạy: “ Lưỡi nếm vị không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, vì nguyên nhân gì khiến vị căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì vị căn, thực hành hộ trì vị căn”, thì ý nghĩa câu kinh quá rõ ràng, chỉ cần ta biết được nguyên nhân nào vị căn không được chế ngự, để chế ngự nó thì các tham ái, ưu bi, các bất thiện pháp không thể xẩy tới, không còn chiếm ngự trên thân tâm chúng ta nữa, thế là ta được giải thoát.
Theo lời kinh dạy thì ta không nắm giữ tướng chung cũng như tướng riêng của thực phẩm. Nghĩa là không ưa cái ngon, dở, không quản cái cứng, mềm, chế biến nấu nướng thích khẩu vị hay không; mà chỉ duy nhất biết đây là thực phẩm làm từ vật liệu thanh tịnh thực vật, không từ bất tịnh động vật, giúp ta giải trừ cơn đói.
Cho nên phải thường xuyên tác ý trước khi ăn: “ Thức ăn là vật bất tịnh, dùng để nuôi thân tứ đại bất tịnh, ta không cầu ăn ngon, không cầu ăn nhiều, chỉ cần ăn để sống, để có thân tu hành các pháp Phật”. Thường xuyên mỗi bữa ăn đều quán thực phẩm bất tịnh thì tâm sẽ nhàm chán không còn thèm ăn.
Có vậy ta mới thấy những vị chân chánh tu hành; họ vào rừng sâu, sống trong hang động, sống trên đảo giữa biển khơi chỉ ăn toàn ra u rừng, cây trái trong rừng trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm chuyên chú tu tập thiền định. Với ý chí quyết liệt như thế, họ mới chứng đắc được những bước tâm linh sâu mầu, mới xứng đáng với những gian nan to lớn, những chịu đựng thiếu thốn mọi bề mà một người bình thường như chúng ta khó thể đạt tới mức chịu đựng đó chứ đừng nói đến vượt qua.
(00:44:42) Mới gần đây, bản tin về chú bé Ram Bahadur Bomjon, 16 tuổi, người Nepal, đã ngồi thiền định không ăn uống, trong 6 tháng với ý định trở thành Phật, đã làm sửng sốt và đánh động tính hiếu kỳ, chuyện lạ của nhiều người. Bản thân người viết bài này cũng đã gặp một người Việt ngồi thiền không ăn, nhưng còn uống nước. Trong suốt 90 ngày và tưởng thức của người này phát triển mạnh có khả năng hiểu suốt giáo pháp Đại thừa.
Một người Việt khác thì chỉ ăn toàn hoa vạn thọ và một vài loại hoa khác hoặc ăn thêm các loại rau bình thường mà không ăn được bất cứ thức ăn nào khác, kể cả cơm. Từ năm 1996 đến nay vẫn còn ăn như vậy; người này ngồi thiền bất động lâu ngày nhưng người có khả năng tâm linh và chạy chữa được nhiều thứ bệnh. Như vậy khi con người tu tập một phương pháp thiền định nào đó thì người này có thể không cần đến các thức ăn như những người bình thường
Trong bài giảng Tứ Vô Lượng Tâm, Trưởng lão Thông Lạc dạy: "có người nhập thiền định không ăn uống từ một ngày cho đến một tháng, mà không chết, theo đó cơ thể phục hồi dần dần và sinh hoạt bình thường trở lại. Nhập thiền định một ngày là làm chủ sống chết một ngày, nhập định được một tháng là làm chủ sống chết được một tháng".
Điểm này, Trưởng lão muốn nói đến những người chứng đắc Tứ Thánh Định, làm chủ được sự sống. Đi tìm đường giải thoát thì phải từ từ giải thoát những gì mà người bình thường phàm phu không thể làm được. Nếu người này không thấu hiểu và không áp dụng những phương pháp tu hành chế ngự, khắc phục ác pháp, nuôi dưỡng, tăng trưởng thiện pháp như lời đức Phật đã dạy và sống như đời sống của đức Phật và chúng Thánh Tăng thời đó, thì đừng mong giải thoát sanh tử luân hồi.
(00:46:57) Ta hãy đọc lại một bài kinh, trong đó đức Phật dạy một vị Tỳ kheo cách thọ dụng thực phẩm như thế nào cho đúng oai nghi, cho tăng trưởng thiền định.
Một hôm đức Phật trong khi đi khất thực thấy một Tỳ kheo đang hưởng thọ, hương vị vật thực trống không, không có thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dụng, thất niệm, không tỉnh giác, không Định Tĩnh, với tâm tán loạn, với các căn không được chế ngự, phóng túng, Phật dạy: “ Thầy chứ có làm cho tự ngã trở thành thối nát, ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ thoát ra toàn mùi thối rồi mong rằng các loài ruồi lằn sẽ không bu đậu, sẽ không chiếm cứ, sự kiện như vậy không có xảy ra”. Vị Tỳ kheo ấy được Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới như vậy cảm thấy xúc động rất mạnh. (Đó là bài kinh trong Tăng Chi Bộ Tập I chương Ba Pháp kinh 126, )
Trong đoạn kinh này, đức Phật đã chỉ thối nát, sự tham cầu, người nào không những tham cầu ăn uống mà còn tham cầu nhiều thức khác, là người đã làm cho tự ngã trở nên thối nát, bẩn thỉu. Mùi hôi thối là tâm sân, những người tâm đầy sân hận, giận hờn tức tối, thì chính họ đã làm cho tâm họ có mùi hôi thối. Suy tầm ác, bất thiện là ruồi lằn, những ai không suy tầm thiện, tâm không hướng thiện, tâm chỉ suy tư nghĩ tưởng những chuyện thường tục phàm phu, suy tư theo kiểu thế tục là họ đã chất chứa ruồi lằn trong tâm. Nếu vị nào lòng lắm khát khao mong cầu cho ăn uống ngủ nghỉ tâm không thu thúc, không tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả, mà chất chứa sân hận thì tâm trí người này chỉ suy tư toàn những bất thiện pháp, chẳng bao giờ thoát được khổ đau luân hồi.
Để tăng trưởng sự tỉnh giác trong hành động ăn uống, ta thường nên tác ý câu: “ Ta phải tĩnh giác, tâm niệm công lao khổ nhọc của đàn na làm ra thực phẩm cúng dường. Ta phải năng nổ tinh tấn tu hành để xứng đáng với sự hy sinh to lớn của mọi người đã chu cấp các nhu cầu cho ta tu”.
(00:49:34) Người đời thường nói "ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo". Cho rằng cái ăn, cái ngủ thể hiện được sức khoẻ của mỗi người. Không ăn thì chết, không ngủ thì bệnh. Ăn và ngủ điều tối quan trọng vì chúng bồi đắp năng lượng tiêu hao trong hoạt động cơ bắp và tinh thần hằng ngày.
Nhưng trong đạo Phật xem cái ăn cái ngủ chỉ là ác pháp, cái ngủ làm cho tâm trí người tu theo Phật bị mờ mịt, u tối, vô minh, không sáng suốt, không có năng lực thiền định, không có ý chí tự thắng mình, tự chuyển hoá từ phàm phu lên bậc Thánh. “Một khi đã quyết chọn đường tu, từ bỏ tài sản lớn: bạc, vàng, châu báu. Từ bỏ tài sản nhỏ: bà con, quyến thuộc, cha mẹ, anh em, bạn bè, thì phải phấn đấu khắc phục cho được cái ngủ, cái dục lạc to lớn thứ năm trong năm dục lạc của thế gian”.
Nói lên ý chí muốn khắc phục ngủ nhưng thực hành được không phải là việc dễ làm. Ngủ là một nghiệp lực của con người, có thắng được ngủ, điều khiển được cái ngủ mới mong điều khiển những nghiệp lực khác để làm chủ bản thân tu tập những thiện pháp, chuyển đổi nhân quả ác ra nhân quả thiện. Người tu thường trực đối đầu với năm dạng ngủ:
Hôn trầm: là ngủ gục, đang ngồi tu mà ngủ; ngồi một lúc là gục lên gục xuống.
Thuỳ miên: ngồi mà cúi đầu, ngoẹo cổ qua bên ngủ thiếp không hay, gục đầu mà ngủ, ngủ thật, ngủ mê, nằm thẳng tay chân ngủ ngon sâu. Khi đã lọt vào thuỳ miên thì ít ra phải sau độ nữa giờ ngủ mới biết mình đã bị thuỳ miên.
Hôn tịch: ngồi mà không tỉnh táo, lúc mê, lúc tỉnh; mơ mơ, màng màng, không chuyên chú sáng suốt vào đề mục.
Vô ký: chợt quên, bị giật mình một cái là bị vô ký tức là bị quên, quên pháp đang tu; khi quên thì tâm không còn tỉnh giác nên vọng niệm sinh khởi; vô ký là dạng của thất niệm, vô ký còn bị xem là không tỉnh thức.
Ngoan không: trạng thái vô ký kéo dài là ngoan không còn gọi là không ngơ, không có ý thức gì cả. Theo Trưởng lão Thông Lạc: "ngoan không là nguyên nhân phát sinh trí tuệ tưởng giải, đây chính là trí tuệ của tưởng ấm đã khiến các Tổ sáng tác Kinh sách Đại thừa phát triển mà gán cho là đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng".
(00:52:33) Nguyên nhân của buồn ngủ: có thể có nhiều nguyên nhân
a) Có thể khi dùng các phương tiện di chuyển, chuyển vận như: đi ghe, đi tàu, đi xe, đi máy bay; có người bị say sóng, say gió nên cảm thấy ngật ngật như ngủ.
b) Bị tất cả các bệnh cũng như khi bị cảm gió làm thân nóng lạnh, lừ đừ buồn ngủ.
c) Tu tập quá sức, nhiều, cố gắng, mệt mỏi sinh buồn ngủ.
d) Thiếu tỉnh giác thiếu tập trung trong lúc tu, sinh tâm lơ là nên buồn ngủ.
e) Trụ tâm không đúng chỗ, ví dụ trụ tâm ở giữa trán ngang chân mày điều tiết mắt mạnh và lâu giờ.
f) Sống cô độc buồn tẻ.
g) Làm việc lao động tay chân hay trí óc nhiều giờ.
h) Phàm phu cờ bạc, rượu chè, trác táng quá độ thì phải sinh buồn ngủ.
Cách xả bỏ vô lượng tâm ngủ:*
Muốn xả bỏ vô lượng tâm ngủ, tức tất cả năm dạng buồn ngủ nói trên thì phải biết nguyên nhân của nó để giải trừ nó. Tùy theo tướng trạng cơ thể mà tu tập, chứ không thể áp dụng một nguyên tắc chung được. Trau dồi tâm tỉnh thức, không buồn ngủ rất khó, cho nên phải cương quyết, bền chí, kiên gan phấn đấu và phải thận trọng. Có thể áp dụng một số biện pháp sau:
a) Dứt bỏ những thói quen xấu, những cuộc chơi không lành mạnh có hại sức khoẻ, thiếu sáng suốt.
b) Lao động vừa phải, người tu hành không nên lao động chân tay nhiều.
c) Phải có biện pháp cứng rắn đối trị chứng lười biếng, tham ngủ như là đi rửa mặt, tắm bằng nước lạnh. Có người tự đánh mình bằng roi, hay lấy dao rọc lên người rồi lấy muối chà sát lên vết thương.
d) Nhìn vào khoảng không gian xa trong các chòm sao.
e) Đặt mình vào vị trí nguy hiểm có thể mất mạng, nếu ngủ gục bị té, như ngồi ở bờ vực, trèo cao, ngồi ở chạc ba cây cao…
f) Đọc Kinh sách tìm hiểu ý nghĩa, xem truyền hình, nếu xem không nên mải mê xem lâu.
g) Nhớ nghĩ lại một chuyện gì làm cho mình có nhiều kích động.
h) Quán xét vô lậu về vô thường, khổ, vô ngã và viết xuống giấy.
(00:55:18) i) Đi kinh hành, đây là pháp môn đúng đắn nhất để phá hôn trầm, vừa đi vừa tác ý câu: *“Với tâm Định Tĩnh tôi biết tôi đi kinh hành*”. Ngày xưa chính đức Phật đã đi kinh hành rất nhiều về đêm. Trong khi đi kinh hành có thể câu hữu thêm pháp tu Từ Vô Lượng thương côn trùng trên đường đi, để chú ý vào từng bước đi, tránh dẫm đạp lên chúng.
Hay nếu đi trong đêm không thể thấy rõ mặt đường thì tác ý thêm câu tu tập Tâm Từ: “Tất cả chúng sanh trên đường đi kinh hành của tôi, xin hãy tránh cho tôi đi, để tôi khỏi vô tình gây chết chóc, tổn thương mà tạo thêm ác nghiệp”.
Dùng Như Lý Tác Ý, đây là một pháp môn tích tập sự tỉnh thức, phải siêng năng tác ý cho đến chừng có ý thức lực sẽ giải trừ được buồn ngủ, và đồng thời nâng sức tỉnh giác lên cao. Câu tác ý phải thích hợp với đặc tướng của mình, nên phải tự trạch pháp ra cho mình, thí dụ như câu:
“Cái ngủ này vốn không có trong thân tứ đại này mà chỉ do ngu si, mê muội, lười biếng, thiếu tinh tấn nên mới thọ sanh ra, hãy đi đi, cút đi”.
Hay câu: “Buồn ngủ hãy lui đi, lười biếng hãy lui đi”.
Hoặc là câu: “ Cơn mơ mơ, say say này hãy lui đi, thân tâm tỉnh táo”.
Người đang tu tập Định Niệm Hơi Thở phải biết tướng trạng của từng tên giặc làm mờ mịt tâm, mà đối trị theo cho đúng với nó.
Thí dụ như hôn trầm thì ngủ gục, khi có tướng trạng này thì hãy mau mau đứng dậy đi kinh hành, hay dùng các pháp môn khác mà phá, đừng ngồi nữa, tiếp tục ngồi thì chỉ ngủ gục lên, gục xuống mà thôi.
Thuỳ miên là ngủ, nghẹo cổ ngủ, thuỳ miên khi nó vô rồi, thì chỉ biết đã bị thuỳ miên. Sau ít ra là nữa giờ hay 20 phút nó lặng vô, lặng im làm mình thấy an ổn rồi đi luôn với an ổn đó, đến chừng giật mình thức dậy thì đã qua nữa giờ, 20 phút rồi, ngủ ngon lành.
Nhưng ít khi bị thuỳ miên, thường bị hôn trầm nhiều hơn, trước khi bị thuỳ miên thì có dạng hơi thở lặng lặng, kiểu như ru ngủ, hơi thở đi nhè nhẹ vô, khi thấy hơi thở thay đổi thì coi chừng nó vô thùy miên, khi thấy hơi thở nhè nhẹ của thuỳ miên thì hãy thở mạnh lại để phá nó.
(00:58:08) Bị vô ký là khi bị thất niệm, trạng thái vô ký thì hay giật mình, khi giật mình thì tự họ biết vô ký tới, vô ký thì không bao giờ dẹp hết vọng tưởng, vô ký là quên nên vọng tưởng xẹt vô. Hãy đứng lên đi kinh hành để nó đừng vô ký, chú ý bước chân hoặc tác ý liên tục từng hơi thở thì không có kẻ hở để vô ký xen vô được.
Ngoan không là ngồi tĩnh nhưng mà nó không ngơ, không biết cái gì hết, giống như ngủ nhưng mà thấy mình tĩnh thức. Ngoan không thì có trạng thái an lạc báo động một vài lần, những cái an này nó sẽ đẩy tâm mình vào không; khi biết được nó thì gong mình lên cho mất cái an đó, cái an sẽ đưa liền tới cái không, phá cái an đó thì cái không không tới được. Gồng cho cơ bắp tay chân mất an, trở lại trạng thái bình thường, ôm pháp tu lại.
Làm sao để biết là đã phá được hôn trầm:
(00:59:17) Đó là lúc ngồi lại tu các pháp môn mà không còn bị gục nữa, thời nào tu cũng tỉnh táo suốt toàn thời. Ngày nào, thời nào, cũng được như vậy thì đó là đã phá được hôn trầm. Đã tu theo đạo Phật thì phải bằng mọi cách, làm chủ, xa lìa năm thứ dục lạc: "tài, sắc, danh, thực, thùy" - được phân tích sơ lược trên, để chấm dứt sanh tử luân hồi, không xả được năm thứ dục lạc ấy, tức không tròn giới luật, tánh chất hãy còn vẫn là phàm phu, thì dù cho có được đạt thiền nào thì cũng là ma thiền, tà thiền.
Đức Phật dạy ta viễn ly, từ bỏ, đoạn tận, tham ái, sân, si để cuộc sống được an vui, giải thoát. Chứ còn bị năm thứ dục lạc trói buộc thì không phải là đời sống giải thoát, đó là đời sống phi phạm hạnh, không phải là đời sống của người tu theo đạo Phật.
Trưởng Lão Thông Lạc khẳng định: "Chỉ cần nhìn vào đời sống của tu sĩ thì ta biết ngay Phật giáo hưng thịnh hay không. Khi người tu sĩ mà không lấy ba Thánh pháp Giới, Định, Tuệ làm chỗ nương lực tựa vững chắc thì dễ phạm lỗi lầm. Không biết xấu hổ trước những lỗi nhỏ nhặt thì chánh pháp suy đồi. Khi nào có các thầy tu chưa xa lìa ngũ dục, sống thiểu dục tri túc; khi nào có các thầy tu xa lìa ngũ dục, sống thiểu dục tri túc, ba y một bát, không nhà không cửa, không tài sản nhỏ, tài sản lớn, là còn những bậc chân tu giới đức, thiện đức, thật sự giải thoát khỏi những dục lạc thế gian, là điềm lành cho Phật giáo".
Bài giảng Tứ Vô Lượng Tâm
(01:01:10) 2.2.6. (Năm) Xả tâm với Năm Dục Trưởng Dưỡng:
Năm Dục Trưởng Dưỡng là mắt thấy sắc sinh dục; tai nghe tiếng sinh dục; mũi ngửi hương sinh dục; lưỡi nếm vị sinh dục; thân xúc chạm sinh dục; càng tiếp duyên càng nhiều, sinh dục càng nhiều nên gọi là trưởng dưỡng.
Càng trưởng dưỡng càng chồng chất sự đau khổ. Cho nên càng tái sanh, dục càng nhiều hơn. Vì thế mà khổ hoài khổ mãi không dứt. Vậy muốn xả năm tâm dục trưởng dưỡng này thì phải làm sao?
Thì phải chế ngự các căn để các tham ái ưu bi sầu khổ không thâm nhập tâm, không phát triển, không tăng trưởng để đoạn tận Năm Dục Trưởng Dưỡng này thì Tứ Niệm Xứ cần phải được tu tập, tức là trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp, cần phải được quán chiếu để khắc phục tham ưu, sầu, khổ.
Đức Phật đã khẳng định "tham ái là bệnh tật là mụt nhọt, là mũi tên - tham ái dẫn dắt con người đi tái sanh đời này đời khác, khiến con người khi cao khi thấp. Tham ái chính là những gì các sắc do mắt nhận thức sinh ra khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái - liên hệ đến dục hấp dẫn. Các thinh do tai nhận thức sinh ra khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái - liên hệ đến dục hấp dẫn. Các hương do mũi nhận các thức sanh ra khả lạc khả hỷ, khả ý, khả ái - liên hệ đến dục hấp dẫn. Các vị do lưỡi nhận thức sanh ra khả lạc khả hỷ, khả ý, khả ái - liên hệ đến dục hấp dẫn. Các xúc do thân nhận thức sinh ra khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái - liên hệ đến dục hấp dẫn. Bất kỳ những pháp bất thiện nào cũng khiến cho tâm tham ái khởi lên là nguyên nhân cho mọi chấp thủ, dính mắc phát sinh".
Cho nên cần từ bỏ tham ái sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm thích tham ái, câu tác ý chính là: “ Tâm tham ái là bệnh tật, là mụt nhọt là mũi tên chỉ làm ta ưu bi sầu khổ tham ái dẫn dắt con người đi tái sanh đời này đời khác hãy viễn ly xa rời tham ái”.
(01:03:31) Tâm còn đầy tham, sân, si là tâm không tỉnh giác, là tâm phàm phu chạy theo nghiệp bị nghiệp dẫn đi. Khi tu tập để được tỉnh thức để nhận ra "khi nào tâm có tham biết là tâm có tham; tâm không có tham biết là tâm không có tham; tâm có sân biết là tâm có sân; tâm không có sân biết là tâm không có sân; tâm có si biết là tâm có si; tâm không có si biết là tâm không có si*"*.
Biết được vậy, thấy được vậy thì phải đoạn trừ, phải xả ly tâm tham, phải đoạn trừ phải xả ly tâm sân, phải đoạn trừ phải xả ly tâm si, để giữ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Muốn xả được tâm tham, sân, si thì phải dùng tri kiến Định Vô Lậu, để thấy rõ bản chất của mỗi loại tâm hành. Khi thấy bản chất của nó là vô thường, khổ, vô ngã thì đoạn trừ được và tâm tham ái sân si sẽ không bao giờ trở lại.
Pháp môn dùng để đối trị các tâm hành này là những đề mục của Định Niệm Hơi Thở áp dụng trong khi tu pháp môn Tứ Niệm Xứ; quét các chướng ngại trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Các tâm tham, sân, si xả bỏ được thì Thất Kiết Sử và ngũ triền cái tự động bị đoạn trừ bớt, giảm nhẹ đi, nên không cần dùng công khó khăn nhiều nữa.
(01:04:59) Bố thí giúp tâm giải trừ tính keo kiệt, bỏn xẻn, biết thương xót những người bị hoạn nạn tai ương, những người thiếu may mắn. Bố thí là pháp môn xả tâm tuyệt vời, giúp buông bỏ vật chất, tiền tài, tiền bạc, tài sản, truyền cho người những hiểu biết học hỏi, những khéo léo kỹ thuật tay chân, giúp người phương tiện thăng tiến cuộc sống.
Bố thí gồm có hai loại bố thí. Tài vật là những vật chất hữu hình, giải quyết khó khăn trong một giai đoạn nhất định nào đó và bố thí pháp là những lời khuyên dạy đạo đức: Chánh Hạnh, Chánh pháp để người sống theo, chuyển hoá những ác nghiệp thành thiện nghiệp đem an vui hạnh phúc dài lâu cho nhiều người. Nên biết rằng thiện nghiệp bố thí dù nhỏ, cũng cần được thực hiện với đầy đủ ý thức hiểu biết.
Thí dụ như những ai đổ đồ phế thải trên mâm bàn hay đồ rửa chén bát vào hố nước hay hố rác với ý nghĩ để các loài hữu tình trong ấy nhờ đấy được ăn để sống thì người ấy cũng đã đem lại công đức huống nữa là bố thí đối với người đang thiếu hụt, đang cần tới.
Tài thí thì dễ thực hiện hơn, tuy nhiên cũng cần cân nhắc nhận xét, và suy nghĩ với sự bố thí đúng với chánh pháp, thì mới có nhiều công đức. Trong hành động bố thí cúng dường ẩm thực bao gồm bốn kết quả từ sự bố thí này đó là: người nhận được sự cúng dường nuôi dưỡng, được thọ mạng, có được dung sắc, có an lạc và có được sức khoẻ.
Người thí chủ cũng có được bốn phần này ngay trong hiện tại hay sẽ có trong tương lai. Bố thí cho người có giới hạnh được quả lớn, cho người ác giới thì không được bằng.
(01:06:52) Khi sự bố thí gồm đủ sáu phần.
"Ba phần thuộc về người bố thí; nhưng trước khi bố thí ý được vui; trong khi bố thí tâm tịnh tín; sau khi bố thí trạng thái hoan hỷ".
"Ba phần khác thuộc về người nhận; người nhận đã ly tham hay đang thực hành hạnh ly tham, đã ly sân hay đang thực hành hạnh ly sân, đã ly si hay đang thực hành hạnh ly si. Thì sự bố thí cúng dường tứ sự được vô lượng công đức, vô lượng phước đức đưa tới quả lạc dị thục, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc an lạc lâu dài" .
Hành động bố thí tự nó là pháp xả tâm. Tuy nhiên muốn cho tâm bố thí được phát triển thì có thể tác ý thêm câu: “Ta hãy bố thí cúng dường cho đúng với Chánh Hạnh với bàn tay rộng mở. Khi bố thí cúng dường muốn được quả lớn, lợi ích lớn thì người bố thí phải xả bỏ những tư tưởng mong cầu, hay những tư duy trói buộc hạng hẹp, mà phải có thái độ buông xả tâm trọn vẹn”.
Như đức Phật đã dạy trong bài Kinh sau: “Bố thí không có tâm mong cầu; bố thí không có tâm trói buộc; bố thí không có mong cầu được chất chứa; bố thí không có ý nghĩ ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau; bố thí không có ý nghĩ lành thay sự bố thí; bố thí không có ý nghĩ cái này được cho trong đời quá khứ; ta được tổ tiên làm trong quá khứ. Ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên. Bố thí không có ý nghĩ ta nấu ăn các người này không nấu ăn, ta không xứng đáng là người nấu ăn là không bố thí cho người không nấu ăn; bố thí không có ý nghĩ do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín hỷ diệt khởi lên"
Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Do vị ấy bố thí như vậy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy nghiệp được đoạn tận thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy nguyện ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai không thở lui trạng thái này".
(01:09:23) 2.3.1. ( Một ) Xả tâm năm triền cái
Năm triền cái là "tham dục triền cái, sân triền cái, thuỳ miên hôn trầm triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi triền cái". Đó là năm màn ngăn che làm cho ta không nhận biết được tâm ta có ác pháp tham, sân, si, mạn, nghi chế ngự. Chỉ khi đốn ngộ các pháp màn ngăn che được kéo lên, ta mới nhận ra tâm ta có đầy đủ các ác pháp tham sân, si. Cho nên năm màn ngăn che này cần phải đoạn trừ.
Tham dục triền cái là màn ngăn che lòng ham muốn, khiến cho bình thường ta thấy như ta không còn lòng tham nhưng thật ra nó vẫn còn nguyên trong tâm; nó ngủ ngầm trong tâm. Cho nên còn gọi là tham tùy miên là lòng tham đang ngủ ngầm.
Sân triền cái là màn ngăn che lòng sân giận khiến cho bình thường ta thấy như ta không còn lòng sân, nhưng thật ra nó vẫn còn nguyên trong tâm ;nó ngủ ngầm trong tâm. Cho nên gọi là sân tùy miên là lòng sân đang ngủ ngầm.
Hôn trầm thùy miên triền cái là màn ngăn che hôn trầm thùy miên khiến cho bình thường ta thấy như ta không còn hôn trầm thùy miên nhưng thật ra nó vẫn còn nguyên trong tâm; nó ngủ ngầm trong tâm. Cho nên còn gọi là hôn trầm tùy miên, tức là hôn trầm đang ngủ ngầm.
Trạo hối triền cái là màn ngăn che trạo hối, trạo cử hối quá khiến cho bình thường ta thấy như ta không có trạo cử hối quá, nhưng thật ra nó vẫn còn nguyên trong tâm; nó ngủ ngầm trong tâm. Cho nên còn gọi là trạo hối tùy miên, là trạo hối đang ngủ ngầm
Nghi triền cái là màn ngăn che nghi, khiến cho bình thường ta thấy ta không còn nghi nhưng thật sự ra nó vẫn còn nguyên trong tâm; nó ngủ ngầm trong tâm. Cho nên còn gọi là nghi tùy miên là nghi đang ngủ ngầm.
(01:11:27) Năm triền cái này là năm pháp ngăn che khiến tâm ta không thanh tịnh, tức là không ly dục ly ác pháp hoàn toàn do đó nội tâm ta không đủ nội lực Tứ Như Ý Túc, để thực hiện Tam Minh. Muốn đoạn tận năm triền cái này, thì chúng ta phải tu tập Tứ Niệm Xứ, ngoài Tứ Niệm Xứ thì không có pháp môn nào đoạn tận chứng được
Đức Phật đã dạy rõ ràng: “ Này các Tỳ kheo có năm triền cái, thế nào là năm: dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thùy miên triền cái, trạo hối triền cái, nghi triền cái. Này các Tỳ kheo để đoạn tận năm triền cái này bốn niệm xứ cần phải tu tập”. Tu tập xả năm triền cái theo kinh Tứ Niệm Xứ được đức Phật dạy như sau:
“Nội tâm có tham dục, tuệ trị nội tâm tôi có tham dục; hay nội tâm không có tham dục, tuệ tri rằng nội tâm tôi không có tham dục. Và với tham dục chưa sanh nay sanh khởi vị ấy tuệ tri như vậy và với tham dục đã sanh nay được đoạn diệt vị ấy tuệ tri như vậy, và với tham dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Nội tâm có sân hận tuệ tri rằng nội tâm tôi có sân hận hay nội tâm không có sân hận tuệ tri rằng nội tâm tôi không có sân hận. Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi vị ấy tuệ tri như vậy, và với sân hận đã sanh nay được đoạn diệt vị ấy tuệ tri như vậy, và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa vị ấy tuệ tri như vậy.
Nội tâm có hôn trầm thuỳ miên tuệ tri rằng nội tâm tôi có hôn trầm thuỳ miên, hay nội tâm không có hôn trầm thuỳ miên, tuệ tri rằng nội tâm tôi không có hôn trầm thuỳ miên, và với hôn trầm thuỳ miên chưa sanh nay sanh khởi vị ấy tuệ tri như vậy và với hôn trầm thuỳ miên đã sanh, nay được đoạn diệt vị ấy tuệ tri như vậy, và với hôn trầm thuỳ miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa vị ấy tuệ tri như vậy.
Nội tâm có trạo hối tuệ tri rằng nội tâm tôi có trạo hối hay nội tâm không có trạo hối tuệ tri rằng nội tâm tôi không có trạo hối và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi vị ấy tuệ tri như vậy, với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy và với trạo hối đã được đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có nghi tuệ tri rằng nội tâm tôi có nghi, hay nội tâm không có nghi tuệ tri rằng nội tâm tôi không có nghi và với nghi chưa sanh nay sanh khởi vị ấy tuệ tri như vậy và với nghi đã sanh lên được đoạn diệt vị ấy tuệ tri như vậy và với nghi đã được đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa vị ấy tuệ tri như vậy”.
(01:14:16) Mỗi khi nội tâm có những triền cái nói trên và đã tỉnh giác nhận ra chúng thuộc triền cái nào thì phải dùng Định Vô Lậu quán xét để đẩy lui, để quét đi, nhất là phải sử dụng cho được những câu tác ý thích hợp, để đối trị chúng chứ không phải chỉ ngồi mà tuệ tri thôi mặc dù kinh văn không nói rõ.
(01:14:45) Năm Hạ Phần Kiết Sử là năm sợi dây trói buộc của phần thấp thô tháo, không vi tế, dễ thấy, dễ biết. Đó là tham kiết sử, sân kiết sử, thân kiến kiết sử, giới kiết sử và nghi kiết sử. Khi có lòng tham khởi lên thì ngay đó hình thành những liên hệ khổ đau, phiền não, nối kết trói buộc tâm ta vào tham tâm đó khiến cho khó rời khó bỏ, khó đoạn trừ lòng tham, đó là kiết sử.
Khi lòng tham muốn không đạt được, thì tâm khởi phiền não giận hờn tức tối, đó là sân kiết sử trói buộc tâm ta vào sự giận hờn, khó rời bỏ khó dứt trừ. Khi tâm chấp ngã coi có mình, có những kiến chấp về mình bị tổn thương, gây phiền não đó là thân kiến kiết sử, trói buộc tâm ta vào phiền não kiến chấp về thân kiến.
Giới kiết sử là những phiền não trói buộc tâm ta chấp chặt vào những giới điều phi lý của ngoại đạo, không đem lại ích lợi Phật pháp, mà không buông bỏ.
Ví dụ tu theo hạnh con chó, con bò, nhưng hình thức khổ hạnh vô ích đứng một chân, ngâm người trong nước giá lạnh.
Nghi kiết sử là những phiền não nghi người, nghi mình, chấp chặt vào lòng nghi ngờ không buông bỏ,
Muốn buông xả tiêu trừ năm hạ phần kiết sử, thì phải tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ như đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ kheo có năm hạ phần kiết sử thế nào là năm: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân, để đoạn tận năm hạ phần kiết sử này bốn niệm xứ cần phải tu tập”.
(01:16:26) Kiết sử là sợi dây trói buộc, thượng phần là phần trên, phần cao hơn, tế vi hơn, Thượng Phần Kiết Sử gồm có dục tham kiết sử, sân kiết sử, hôn trầm thùy miên kiết sử, trạo hối kiết sử và nghi kiết sử.
Những dây trói buộc này phải được trừ dứt làm cho nó không còn trói buộc tâm ta vào những phiền não chấp thủ các trạng thái có hình sắc, và không có hình sắc
Sắc ái kiết sử: là những trói buộc, làm tâm ta chấp chặt những phiền não, liên quan đến những vật có hình tướng như nhà cửa xe cộ tài sản đồ đạc, đất đai, ruộng vườn.
Vô sắc ái kiết sử: là những bó buộc tâm chấp chặt, vào những phiền não liên quan tới những vật không có hình tướng, như các cảm thọ, thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Những phiền não liên quan tới những hành như thân hành, khẩu hành, ý hành ưa thích và không ưa thích
Mạn hay ngã mạn kiết sử: là những trói buộc tâm vào những thái độ kiêu căng tự đắc coi trọng mình, xem nhẹ người.
Trạo cử kiết sử: là những trói buộc tâm vào những phiền não khiến tâm bất an, hay thân bất an nhúc nhích động đậy, không bất động
Vô minh kiết sử: là những trói buộc tâm vào những phiền não của các trạng thái hôn trầm, thuỳ miên, vô ký, khiến cho thân lười biếng, tham ăn, tham ngủ, tinh thần dã dượi, không siêng năng tinh tấn.
Muốn đoạn diệt được Năm Thượng Phần Kiết Sử này, đức Phật cho biết chỉ có tu pháp môn Tứ Niệm Xứ mới đủ khả năng; ngoài Tứ Niệm Xứ thì không có pháp môn nào làm được: “Này các Tỳ kheo có Năm Thượng Phần Kiết Sử, thế nào là năm, sắc ái, vô sắc ái, mạng, trạo cử, vô minh. Này các Tỳ kheo để đoạn tận Năm Thượng Phần Kiết Sử này bốn niệm xứ cần phải tu tập”
Xin lặp lại ở đây một đoạn kinh đã nêu trong phần định nghĩa để thấy sự vi tế của các tâm kiêu mạn, trạo cử và hối quá.
“Này hiền giả Anuruddha, hiền giả suy nghĩ như sau với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên; tôi có thể nhìn một ngàn thế giới; ấy là kiêu mạn của hiền giả. Này hiền giả Anuruddha, hiền giả suy nghĩ như sau, phân chấn là tinh tấn của tôi, không có thụ động niệm đặt an trú, không có thất niệm, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được Định Tỉnh, nhất tâm; ấy là trạo cử của hiền giả. Này hiền giả Anuruddha hiền giả suy nghĩ như sau tuy vậy tâm của tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ ấy là hối quá của hiền giả, lành thay nếu Tôn giả Arunoda đoạn trừ ba pháp này, không tác ý ba pháp này, hãy chú tâm vào giới bất tịnh”
(01:19:24) Năm Thủ Uẩn là những thành phần do duyên hợp tạo nên thân người. Trong Năm Thủ Uẩn này chỉ sắc thủ uẩn là thành phần hữu hình; còn bốn thành phần còn lại gồm có thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn đều là thành phần vô hình.
Sắc thủ uẩn hay sắc uẩn do bốn đại đất nước gió lửa duyên hợp.
Thân ngũ uẩn có sáu căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý do sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần; với sáu Trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nên mới sanh ra sáu Thức, là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cộng chung tất cả là mười tám giới.
Hai thọ uẩn: Thọ uẩn có ba loại, thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, chúng đưa lại cảm thức lạc, khổ liên hệ với sắc thức, cảm thức bị ưu não liên hệ với tưởng thức. Thông thường ta nhận định qua những cảm thức đau đớn, khổ sở, an lạc, mừng vui, tức giận, phiền não đó là qua thọ uẩn tức thọ thủ uẩn.
Ba tưởng thủ uẩn hay tưởng uẩn là phần vô hình của thân ngũ uẩn, chính do tưởng thủ uẩn hoạt động, mà người đời và tất cả các tôn giáo, đều hiểu lầm sự hoạt động này của tưởng thủ uẩn là thế giới siêu hình. Chiêm bao cũng là dạng hoạt động của tưởng thủ uẩn; nhưng nó thuộc về ý thức tưởng.
Bốn hành thủ uẩn hay hành uẩn là những hành động phối hợp hợp các thành phần sắc thủ uẩn, tưởng thủ uẩn và thức thủ uẩn. Chính hành thủ uẩn này làm cho thân thủ uẩn không trở nên vật bất động vô tri, vô giác như đất đá.
Năm thức thủ uẩn hay thức uẩn là thành phần hoạt động siêu không gian và siêu thời gian nó thuộc về trí tuệ Tam Minh, lục thông, của những người tu chứng Thánh quả A La Hán người chưa chứng Thánh Quả này không bao giờ sử dụng được thức thủ uẩn, nó bất động không hề hoạt động chút nào.
Đức Phật đã xác nhận thân người có năm uẩn : “Này các Tỳ kheo có Năm Thủ Uẩn thế nào là năm: sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn. Trên đường tu tập của Phật giáo thì Năm Thủ Uẩn này cần phải đoạn diệt; muốn đoạn diệt chúng thì phải tu tập Pháp môn Tứ Niệm Xứ; cho nên đức Phật dạy này các Tỳ kheo phải đoạn tận Năm Thủ Uẩn này bốn niệm xứ cần phải tu tập"
(01:22:07)
Chúng ta nhận định và suy tư cho rõ ràng; đây là sắc; đây là sắc sanh; đây là sắc diệt; đây là thọ; đây là thọ sanh; đây là thọ diệt; đây là tưởng; đây là tưởng sanh; đây là tưởng diệt; đây là hành; đây là hành sanh; đây là hành diệt; đây là thức; đây là thức sanh; đây là thức diệt.
Tâm trí không rời những nhận định và suy tư này trong sáu trường hợp. "Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp, hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. Có những pháp ở đây vị ấy sống an trú Chánh Niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí Chánh Niệm”.
Chúng ta buông xả hết như đức Phật đã dạy và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời, theo đoạn kinh Tứ Niệm Xứ này thì ta phải tu tập cho đạt được mức chỉ còn pháp tu - lấy pháp tu như sự sống, suốt ngày chỉ ôm pháp không rời ngoài ra không còn gì khác hơn là tâm trí hướng đến chánh trí Chánh Niệm.
(01:23:26) Nếu sống có phòng hộ các căn, tức sống có đúng Giới Luật, giữ gìn nghiêm mật Hạnh Độc Cư thì các kiết sử tức các ác pháp hay các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não không có khởi lên không có xâm chiếm tâm, tu tập các pháp môn mới có kết quả.
Trong bài Kinh Tứ Niệm Xứ, đức Phật dạy rõ ràng, sáu căn sẽ được phòng hộ như thế nào, để các kiết sử không thể sanh khởi
“Tỷ kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này kiết sử sanh khởi. Vị ấy tuệ tri như vậy và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi. Vị ấy tuệ tri như vậy với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt. Vị ấy tuệ tri như vậy và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa. Vị ấy tuệ tri như vậy, và tuệ tri tai* *và tuệ tri các tiếng và tuệ tri mũi và tuệ tri các hương và tuệ tri lưỡi và tuệ tri các vị và tuệ tri thân và tuệ tri các xúc, và tuệ tri ý và tuệ tri các pháp do duyên hay pháp này kiết sử sanh khởi. Vị ấy tuệ tri như vậy, và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi Vị ấy tuệ tri như vậy và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt. Vị ấy tuệ tri như vậy và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa vị ấy tuệ tri như vậy”.
Mỗi khi tuệ tri có những kiết sử sanh khởi, và đã tỉnh giác nhận ra chúng thuộc sắc căn nào mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, hay ý thì phải dùng tri kiến giải thoát mà phòng hộ, thì phải dùng Định Vô Lậu quán xét mà đẩy lui, để quét đi nhất là phải sử dụng những câu tác ý hướng tâm thích hợp để đối trị chúng chứ không phải chỉ ngồi mà tuệ tri mặc dầu Kinh văn không nói rõ. Muốn phòng hộ được kết quả thì phải giữ gìn giới Độc Cư cho được trọn vẹn, không được vi phạm.
(01:25:31) Kinh Bát Thành dạy: “ Tỳ kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương tư; như vậy cùng khắp thế giới trên dưới bề ngang hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên không hận, không sân”.
Như vậy khi tu tập Tâm Xả, ta phải tuần tự an trú Tâm Xả từ phương một; mỗi phương an trú Tâm Xả một phần thời gian rồi mới an trú Tâm Xả qua phương khác cho đến khi đủ cả bốn phương trước sau, trước mặt sau lưng, phương bên trái, phương bên phải, phương bên trên và phương phía dưới. Sau đó an trú toàn thể không gian đại địa, cỏ cây, vườn rừng, sông núi, đại dương, không trung và vũ trụ trời sao với tâm hoàn toàn buông xả không tham trước, không sân hận hay nói gọn là tâm thanh thản an lạc và vô sự.
Theo Kinh văn thì tùy theo sức mà an trú; cho đến khi hoàn toàn sống trong Tâm Xả, trọn thời gian suốt ngày thì năng lực Xả Giác Chi sẽ xuất hiện để tâm có bốn thần túc hướng đến Tam Minh và giải thoát khỏi Dục Lậu chứng đắc cứu cánh giải thoát. Chỉ những vị nào Giới Luật đã nghiêm trì trọn vẹn mới nên ôm một pháp mà tu cho đến rốt ráo; nếu giới luật chưa thành tựu thì phải tu tập thêm những pháp trợ duyên khác; đồng lúc tu trì giới luật không còn vi phạm dù một lỗi nhỏ nào, từ đó mới nên ôm một pháp mà tu cho đến khi thành tựu đạo quả.
(01:27:13)
"Tỳ Kheo ly hỷ trú xả, Chánh Niệm Tỉnh Giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Tỷ Kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ, không có hỷ âý thấm nhuần”
Xả tâm trong Tam Thiền là xả bỏ những cảm thọ về hỷ, tức là sự vô thức trong tâm mà chỉ còn cảm giác lạc thọ trên thân, được gọi là xả thiền lạc trú, một cảm thọ an vui, thanh tịnh, trên toàn thân.
(01:27:56) Xả thân không Tứ Thiền là Tỷ Kheo xả lạc xả khổ; diệt bi ưu các cảm thọ trước, sau phân biệt xả lạc, xả khổ.
Thì đây là tất cả những cảm thọ thuộc về thân; còn việc ưu là xả hỷ cảm thọ của việc tâm. Như vậy ta tu thiền những cảm thọ được xả bỏ toàn diện, dù thuộc về thân hay thuộc về tâm chỉ cần ghi nhắc việc thanh tịnh trong sáng, của năng lực tác ý hướng tâm hay năng lực của Bảy Giác Chi. Tỷ Kheo xả lạc xả khổ diệt bi ưu các cảm thọ trước.
"Tín và trú hoàn thiện thứ tư: Không khổ không lạc xả niệm thanh tịnh, Tỳ kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần".
(01:28:51) "Vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì" trên đó là câu kinh được lặp lại nhiều lần trong bài kinh Tứ Niệm Xứ. Qua câu kinh này, đức Phật đã dạy cho chúng ta việc xả tâm triệt để không thể ôm pháp môn Tứ Niệm Xứ mà tu.
Khi biết tâm và trạng thái an lạc mà vô sự thì hành giả phải buông xả tất cả mọi tâm tư chấp trước chỉ cần trạng thái này mà thôi. Hành giả không được tu tập bất kỳ pháp môn nào trong hoàn toàn thanh thản, vô sự mới đúng trạng thái tâm cần thiết, để thấy được từ thô cho đến vi tế, hiện khởi trong tâm đều quán xét mà để thôi.
Nếu cần giữ bất kỳ pháp nào thì không thể kịp nhận thấy các vi tế sanh khởi. Do đó trong khi tu Tứ Niệm Xứ, Trưởng lão Thông Lạc mới dạy rõ ràng là chúng ta phải giữ tâm như chưa biết tu là gì, nhưng lại là cái tâm không hiện khởi vắng lặng các suy tư khi ngồi, làm sao để có được tâm "Định Tĩnh Nhu Nhuyễn Dễ Sử Dụng".
Cho nên xả tâm của Tứ Niệm Xứ, là buông xả các pháp tu để tâm không còn vướng bận với pháp, để tâm rỗi rảnh vô sự mới nhận biết được những tác động của Thân, Thọ, Tâm, Pháp, trên bốn chỗ đó mà xả bỏ các niệm thuộc nội thân hay thuộc ngoại thuộc cả nội ngoại hay tánh sanh diệt đang hiện khởi tâm sân.
"Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, sống quán pháp trên các ngoại pháp, sống quán pháp với các nội pháp ngoại pháp, không quán tánh sân khởi với các pháp, không quán tánh diệt tận các pháp, không quán tánh sanh diệt với các pháp; có những pháp ở đây vị ấy sống an trú Chánh Niệm như vậy với hy vọng hướng đến Chánh Trí, Chánh Niệm và vị ấy sống không nương tựa không chấp trước một vật gì trên đời".
(01:30:47) "Khi vị Tỷ Kheo đã đoạn tận các lậu hoặc thì tâm vị này giải thoát khỏi tham, giải thoát khỏi sân, giải thoát khỏi si. Khi vị này quán xét tâm mình thấy được giải thoát hết tham, sân, si như vậy thì Xả Giác Chi đã được an trú đã được tu tập viên thành sung mãn. Trước đó trong giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, Xả Giác Chi từ từ xuất hiện trong lúc tu tập Bảy Giác Chi, thì nội tâm chưa được đầy đủ năng lực nên Xả Giác Chi hay còn tùy thuộc điều kiện của nội tâm và điều kiện của Xả Giác Chi kia".
"Hành giả phải tỉnh giác để hay biết nội tâm đang có hay chưa có xả giác chi; nội tâm có xả giác chi tuệ tri rằng nội tâm tôi có xả giác chi, hay nội tâm không có Xả Giác Chi hay tuệ tri nội tâm rằng nội tâm tôi có Xả Giác Chi, và với Xả Giác Chi chưa sanh nay sanh khởi vị ấy tuệ tri như vậy, và với Xả Giác Chi đã sanh nay được tu tập viên thành vị ấy tuệ tri như vậy".
Đoạn kinh sau đây cho biết cách tu tập xả tâm rốt ráo để chứng đắc Niết Bàn: *“ Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có như vậy vị ấy được xả; vị ấy không hoan hỷ, không khả ý, không hoan nghênh, không chấp trước khả ý. Do vị ấy không hoan hỷ, không khả ý, không hoan nghênh, không thủ trước khả ý, thức không lệ thuộc khả ý và không thủ trước khả ý không thủ trước Vị Tỷ Kheo chứng cứu cánh Niết Bàn*”.
(01:32:29) Lợi ích của xả tâm:
Tâm ý người đời do lòng tham ái nên luôn luôn chấp thủ những gì mình có được tạo được, không bao giờ muốn rời xa, có càng nhiều càng vui thích càng sung sướng. Lòng tham ái càng to lớn chừng nào thì tâm tham đắm chấp trước càng nhiều nên vật chuyển đổi hoại diệt theo quy luật tự nhiên của vô thường thì càng chịu đau khổ như ai càng nhớ thương tiếc nuối. Đó là nhân nên chịu sự tái sanh luân hồi không dứt.
Đức Phật thấy rõ như thế, thấy sự đắm chấp tất cả mọi pháp thế gian mà nguyên nhân sinh đau khổ là bản tánh thường hằng của cuộc sống, "lấy chấp thủ làm nhân cho nên Ngài đã thấy được con đường giải thoát của sự khổ đau, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi, bằng cách giải trừ những chấp thủ tham luyến".
Sau khi tự mình chứng đạt chân lý bốn sự thật Ngài đã chỉ cho chúng sanh con đường giải thoát bằng Thánh Đạo Tám Ngành thể hiện Giới Định Tuệ. Cho nên xuyên suốt giáo lý do Ngài đặt ra chỉ có một mục đích duy nhất là giúp cho tất cả mọi chúng sanh giải thoát khổ đau trong kiếp sống.
Qua các bậc nhắc nhở tâm chúng ta thấy rõ chân tướng khổ đau; chúng ta cũng thấy rõ được con đường chấm dứt khổ đau và chúng ta cũng thấy phương pháp tiếp tục thực hành để chấm dứt khổ đau. Đó là con đường từng bước trao dồi, uốn nắng và gột rửa tâm không còn chấp thủ, xả bỏ toàn bộ mọi sắc thế gian. Khi nào tâm cần hạn chế khi hãy hạn chế tâm pháp nào làm cho tâm được phấn chấn cho tâm được hoan hỷ. Khi nào cần buông xả, buông xả để quán sát, quán xét khi ấy làm cho tâm được thanh thản, buông xả, trú xả quán sát quán xét nhắm lạc tâm thanh lương, thanh thản an lạc vô sự và Niết Bàn.
(01:34:42) Trưởng lão: Qua cái bài của sư Từ Quang xin nhắc lại cái đoạn sau cùng để nhớ rằng cái pháp Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là thực phẩm của Thất Giác Chi; Nghĩa là cái món ăn của Thất Giác Chi; mà Thất Giác Chi là cái món ăn của tâm. Mà cho nên ở đây để phân biệt cho rõ có cái chỗ trong bài Kinh có chỗ nói nhập Tứ Thiền; thì tâm mới Định Tĩnh Nhu Nhuyễn Dễ Sử Dụng mới thực hiện tâm.
Còn ở trong cái bài Tứ Niệm Xứ, thì đức Phật xác định là cái thực phẩm của Tứ Niệm Xứ, là cái thực phẩm của Thất Giác Chi; tức là bảy năng lực của Thất Giác Chi.
Và Thất Giác Chi là thực phẩm của Tam Minh; đây là cái món ăn của Tam Minh, nếu không có Thất Giác Chi thì không có Tam Minh; mà không có Tứ Niệm Xứ thì không có Bảy Năng Lực Giác Chi.
Cho nên từ cái chỗ Tứ Niệm Xứ, mà tu tập nó được sung mãn thì nó có bảy năng lực của giác chi mà bảy năng lực của giác chi tức là có Tứ Thần Túc.
Cho nên từ đó vì sao chúng ta nhập định rất là dễ dàng; không có Tứ Thần Túc thì chúng ta biết bởi tâm Tứ Thần Túc bởi có Định Như Y Túc, Định Như Y Túc mình muốn. Cho nên mình muốn nhập cái Sơ Thiền, Nhị Thiền hay Tam Thiền đều là do ý muốn của mình chứ không phải còn tu tập. Cho nên nó nhập định không có khó khăn không có mệt nhọc, không có còn tu tập.
(01:36:08) Còn nếu mà chúng ta ở trong Kinh Bát Thành chúng ta tu tập để mà nhập cái Sơ Thiền hoặc Nhị Thiền hay Tam Thiền, Tứ Thiền một pháp mà đi vào cứu cánh cuối cùng thì nó mới trải qua cái chỗ mà nhập Tứ Thiền mới có đủ Định Tĩnh Nhu Nhuyễn Dễ Sử Dụng mới thực hiện Tam Minh.
Thì đó là đi vào Pháp Độc Nhất mà chúng ta phân biệt được cái này chứ không khéo chúng ta không phân biệt được thì chúng ta cứ nghĩ rằng tu Tứ Niệm Xứ thì sau khi đa nhập các Định rồi mới có Tứ Thần Túc thì không phải, không phải vậy đâu. Ở trên Tứ Niệm Xứ là nó..
Khi mà sung mãn tứ Niệm Xứ thì nó có Bảy Năng Lực Giác Chi mà Bảy Năng Lực Giác Chi tức là nó có Tứ Thần Túc rồi.
Lưu ý cái phần đó, bởi vì trong những cái bài kinh này, có bài kinh nói thế này có bài kinh nói thế khác mà chúng ta không hiểu thì chúng ta bị lầm.
Vì trong kinh Bát Thành nó đã xác định được Sơ Thiền cũng là một Pháp Độc Nhất; mà Nhị Thiền cũng là một Pháp Độc Nhất mà Tam Thiền cũng là một Pháp Độc Nhất đi đến cứu cánh giải thoát nếu mà người đó chuyên về cái pháp đó. Cho nên ở đây chúng ta khi mà tu Tứ Niệm Xứ là chúng ta tu bốn cái chỗ Thân , Thọ, Tâm, Pháp để bảo vệ cái Chân Lý, gọi là hộ trì cái Chân Lý của chúng ta.
HẾT BĂNG