LCK 082B - ĐỨC XẢ TÂM (NGUYÊN THANH) - PHẢI QUYẾT TÂM MỚI GIẢI THOÁT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 06/02/2006
Thời lượng: [2:49:12]
(00:00) Tu sinh Nguyên Thanh:
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Thầy và kính thưa đại chúng!
Học trò Nguyên Thanh học lớp Chánh Kiến, con xin đọc bài viết số 16, chủ đề ĐỨC XẢ TÂM.
Dù bạn là ai, làm gì và ở đâu thì bạn vẫn khát khao cầu có một đời sống hạnh phúc thật sự. Theo như đức tin của người Phật giáo là tôn giáo mà toàn bộ giáo lý chỉ nhằm khai mở trí tuệ con người nhận chân sự thật khổ đau và con đường đưa đến sự đoạn tận khổ đau. Cho nên có thể nói đức xả tâm là nếp sống vắng mặt sự chấp thủ khổ đau mà bất cứ người Phật tử nào cũng trông chờ.
Trong quá trình chuyển hóa tâm thức, xem ra những suy tư, lời nói hành vi của từng cá thể là kết quả của quá trình chuyển hoá này đi từ điểm xuất phát nhận chân sự kiện đến sự thăng hoa của nó mà ta biết là sự chứng ngộ giải thoát, hay nói cách khác đó là nguyên nhân và kết quả của một chuỗi hành động của nghiệp khi tâm thức chúng ta được khai mở bởi sự tác ý, có ý thức tâm tự vận hành của các chủng tử thiện lành. Cứ thế mà những hạt giống này cứ đâm chồi nảy lộc ngay trong đời sống thường nhật này hay trong các đời sau mà đức Xả Tâm luôn luôn được làm cho hiển lộ. Từ đó, tự thân chúng ta không chỉ an trú trong niềm phúc lạc của sự tự do hành động chính mình mà còn có ảnh hưởng đến sự tùy hỉ của người khác. Sau hết là tạo ra một nghiệp mới tốt lành cho chính mình và cho mọi người. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem Đức Xả Tâm này như thế nào.
(02:27) Định nghĩa đức xả tâm - Đức xả tâm nghĩa là xả bỏ, không dùng nữa, không chấp nhận, không ghi giữ trong lòng. Phản nghĩa của xả là cố chấp. Xả là bỏ hết tất cả những vật của thế gian, như thầy tu thì chỉ có ba y một bát, không còn một vật gì hay một chướng ngại nào ở trong tâm.
Vậy thì các pháp của thế gian này là cái gì? Các pháp của thế gian là Pháp trói buộc như một mạng lưới khiến cho ta khó mà thoát khỏi. Cái pháp ấy là sắc dục, tài sản. Thế gian vật chất nhỏ, vật chất lớn: nhà cửa, ruộng vườn, danh thơm, tiếng tốt, tiếng khen, tiếng chê, thức ăn ngon, dở, ngủ nghỉ, anh em, bè bạn xa gần, chùa to tháp lớn, miếu đình tế tụng, cúng bái tụng niệm, salon, tủ giường, bàn ghế, ly chén, xoong nồi, tivi, radio, tủ lạnh, máy vi tính, v.v. và v.v.
Kinh sách, kiến thức văn học, thiên văn, địa lý, toán học, văn học, kinh tế, chính trị, dịch số, bói toán và các nghề thợ mộc, thợ may, thầy thông, thầy ký, thầy bùa, thầy cúng. Nói chung là tất các nghề trên thế gian thuộc về đâu nó cũng dính tới ta, đủ nghề nó cũng dính tới ta từ cái ly cái chén trong nhà cho đến kiến thức học tập, tâm ta cứ chấp cái này cho đến cái kia làm cho chúng ta không giải thoát.
Nếu không xả hết thì nó sẽ làm cho lòng ta bận tâm, ta phải xả hết mọi tri kiến trong đầu của chúng ta, kể cả những kiến thức mà ta đã học được bấy lâu, chỉ còn một chuyện duy nhất trong đầu là xả tâm cho hoàn toàn trong sạch. Được như vậy mới là giải thoát. Nếu trong đầu có nhớ Phật đã nói như thế này, Thầy đã nói như thế kia là chưa xả. Thật vậy, Phật đã bảo: “Chánh pháp của ta còn phải bỏ huống hồ là pháp thế gian”.
(05:15) Tính chất của đức xả tâm trong đạo Phật - Đức xả tâm là phương pháp độc nhất để ly dục ly ác pháp. Muốn cho tâm được thanh thản, vô sự thì trước tiên mình đừng cố chấp, phải xả bỏ những điều ngang trái, những điều thiệt thòi, sỉ nhục mà người khác đã làm cho ta.
Nếu ta chưa thể bỏ qua những điều ấy thì không thể nào ta thanh thản vô sự được mà ngược lại người kia cũng vậy. Cái xả ở đây cũng không phải chỉ là sự tha thứ, bao dung đối với những ai đã làm cho ta đau khổ. Không phải chỉ là sự vứt bỏ ra khỏi lòng ta những bực bội xót đau mà người khác đã gieo vào lòng ta. Không phải chỉ là bỏ qua những gì trái tai gai mắt đối với ta, xả ở đây có tính cách tuyệt đối nghĩa là bỏ ra ngoài tất cả, không chấp trước một cái gì dù là vật chất hay tinh thần, dù là xấu xa hay tốt đẹp, dù là ở địa vị phàm phu hay đã chứng được quả Thánh; nếu còn chấp trước năm giữ một cái gì là còn cái ngã, mà còn cái ngã là còn tất cả; nghĩa là còn chưa giải thoát.
Xả tâm ở đây là xả tâm diệt ngã, ly dục ly ác pháp. Nói như thế không có nghĩa người tu hành phải nhắm mắt bịt tai để không thấy không nghe gì cả, không phải là dửng dưng trước mọi sự, mọi vật như đá như gỗ, không phải là không làm gì cả, đứng khoanh tay như tượng đá.
Không! Người thực hành xả tâm vẫn thấy vẫn nghe, vẫn không oán trách mê sân, không để cho lòng mình vương vấn vào cái thấy cái nghe ấy. Người thực hành đức xả tâm phải làm việc, làm việc nhiều hơn ai cả nhưng vẫn không thấy mình vướng mắc vào việc làm gì cả, nhất là khi làm được những việc có kết quả tốt đẹp mà không cố chấp. Nếu gặp những cảnh trái ngược làm cho ta đau khổ phải xả bỏ ngay đi, thì ta mới hết khổ. Tỉ như ta bị người chọc giận, nếu ta cứ cố chấp mãi thì trong lòng ta sẽ thấy bực tức, nặng nề, khó chịu. Nếu ta liền xả thì sẽ thấy lòng ta nhẹ nhàng.
(07:46) Nếu cố chấp những việc làm, ta lại làm nhiều khi sanh ra tính tự cao rồi sẽ đi lần đến chỗ tự kiêu hay tự trách, hoặc coi như thế là đủ rồi, không làm nữa. Thí dụ như ta cho người ăn xin một trăm đồng bạc, nếu ta nhớ mãi thì chút nữa có người khác tới xin, ta quyết không cho vì ta nhớ vừa mới cho một trăm đồng rồi. Trái lại, ta dùng tri kiến quán xét việc xả tâm có nên cho nữa hay không? Nhờ ta biết dùng tri kiến quán xét việc ấy nên tâm ta không dính mắc vào việc cho thêm hay không cho nữa. Đó là ta biết xả tâm mình.
Đức Xả Tâm còn có nghĩa là một tâm không thiên vị khi mọi việc suôn sẻ không có sự hân hoan quá trớn, khi gặp khó khăn trở ngại không buồn nản hay thất vọng. Đức Xả Tâm có nghĩa là không thiên vị đối với bất cứ sự việc nào, coi mọi sự việc bình đẳng như nhau. Một ví dụ về yếu tố xả là ánh sáng mặt trời chiếu xuống mặt đất, mặt trời không hề chọn lựa chiếu soi một nơi này mà từ chối một nơi khác. Nó chiếu tỏa ánh nắng đến từng mọi vật. Yếu tố xả tức là chấp nhận đối đãi mọi vật như nhau.
(09:19) Một phương pháp để trau dồi yếu tố xả - Nhất là trong việc đối xử với kẻ khác, là nhớ rằng chúng ta chỉ là người thừa tự những nghiệp quả của mình. Thế cho nên khi gặp người đang hạnh phúc, ta có thể chung vui với họ trong một tâm xả. Vì hiểu rằng họ đang hưởng những quả trái của kiếp trước, họ không thấy mình đang bị khổ đau. Ta có thể khởi lòng xả tâm làm vơi đi nỗi khổ của họ nhưng với một tâm bất động của ta, vì hiểu rằng đây chỉ là sự bù trừ của luật nhân quả.
Nhưng tâm Xả không phải là một sự lãnh đạm thờ ơ mà là sự quân bình của tâm trong thiện pháp ly dục ly ác pháp. Khi tâm đạt đến một trình độ cao xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là tịnh chỉ hơi thở, trực chiếu từng biến đổi một cách thật chi tiết và chính xác, đó mới thật sự là Đức Xả Tâm.
NỘI DUNG CỦA ĐỨC XẢ TÂM
(10:29) 1. Tính chất của Đức Xả Tâm trong đạo Phật
Gương hạnh Đức Xả Tâm của đức Phật
Gương hạnh Đức Xả Tâm của Trưởng lão Thông Lạc
Đức Xả Tâm là phương pháp đối trị tâm bệnh của chúng sanh
Sử dụng Đức Xả Tâm đối trị tâm cố chấp của chúng sanh
Chuyển hoá bốn khổ đế bằng phương pháp buông xả
Sử dụng Đức Xả Tâm đối trị với tất cả các cảm thọ
Áp dụng Đức Xả Tâm vào bản thân
Phần kết luận
(11:20) Một, gương hạnh Đức Xả Tâm của đức Phật. Hình ảnh của đức Phật đã được người đời sau tạc lại trong các pho tượng với nụ cười hiền hoà thanh thoát của đức Thế Tôn. Nụ cười ấy tượng trưng cho lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của Ngài. Một pho tượng không có được nụ cười ấy cũng như không có được đôi mắt tượng trưng cho trí tuệ, pho tượng ấy chưa phải là của đức Bổn Sư Thích Ca vì nó thiếu tất cả những tính chất căn bản cần thiết đã đưa Ngài lên địa vị Phật mà đã làm người đời sau phân biệt được Ngài với các vị Giáo chủ khác.
Về vật chất, đức Phật trước khi xuất gia đã xả bỏ những gì quý báu nhất mà người phàm phu ít có thể có được như ngai vàng, điện các, ăn ngon mặc ấm, ngọc ngà châu báu, vợ đẹp con ngoan.
Về tu hành Ngài xả bỏ tất cả những gì xấu xa mà con người có thể có, do vô minh, di truyền, tập quán, nghiệp báo gây nên. Ngài bỏ qua tất cả những ác ý và hành động hãm hại Ngài của bọn Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế, chàng Vô Não, cô gái ngoại đạo độn bụng vu oan cho Ngài. Ngài đã không chấp nhất buồn phiền mà còn thương xót tế độ cho họ. Ngài xả bỏ luôn cả những kết quả tốt đẹp mà Ngài đã thành tựu, làm tất cả mọi việc quý báu trên đời mà vẫn tự thấy không thấy dính mắc.
(13:09) Ngài xả bỏ dần, bỏ dần cho đến khi không còn gì để xả bỏ nữa. Ngài xả bỏ tất cả với một sự thanh thoát trong lòng, Ngài xả hết cả những nghiệp ác, xả tiếp tục những gì mình dạy họ khi thấy họ tiến nhanh trên đường giải thoát, xả những cái xả cực nhọc của người mẹ khi thấy con nhỏ bập bẹ nói những tiếng đầu tiên hay bước những bước chập chững. Cái xả của Ngài không phân biệt thân sơ, không có tầng bậc cao thấp, thoát ra ngoài vòng bỉ thử, giờ cũng hồn nhiên trong sáng. Lòng buông xả ấy đã được thể hiện trong tâm xả bất tận ở trên đôi môi của pho tượng của Ngài và đã làm cho tất cả hàng triệu người trên thế giới cảm mến, kính yêu, noi gương hạnh buông xả của Ngài.
Những tướng sĩ chiến đấu với quân địch ở ngoài chiến trường thường được ca tụng là anh hùng, càng chiến thắng được nhiều quân địch lại càng được phong hô là anh hùng cái thế. Những những kẻ anh hùng cái thế ấy như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Ða (César) đã có ai chiến thắng được những dục vọng của chính mình? *Cho nên thắng người đã khó mà thắng mình lại càng khó hơn. Đức Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được cả giặc ma vương lẫn giặc dục vọng. Đức Phật thật xứng đáng với cái danh hiệu Đại Hùng, Đại Lực của Đức Xả Tâm.
Ngài lại không phải vì quyền lợi riêng mình mà buông xả. Ngài xả tâm vì tình thương, mà tình thương ở đây cũng không phải chỉ nằm trong phạm vi hẹp hòi của gia đình thương cha mẹ, vợ con, bè bạn. Đức thương xả của Ngài là tình thương chân thật đối với tất cả chúng sanh, tất cả cõi đời. Mặc dù đức Phật đã nhập Niết Bàn, nhưng gương hạnh xả tâm của đời Ngài vẫn còn chiếu sáng trước mắt chúng ta. Suốt một đời, trong tám mươi năm trời không một phút nào Ngài xao lãng mục đích tối thượng là hóa độ chúng sanh đang còn trầm luân trong bể khổ.
(15:40) Khi còn tại gia, Ngài là người ở trong một địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất nhì đời, thế mà Ngài vẫn không màng nghĩ đến. Khi vào trong đạo, Ngài là người ở trong địa vị cao chót của đạo, thế mà Ngài vẫn không chịu ở yên trong địa vị ấy, lại vất vả rong ruổi trên mọi nẻo đường bụi bặm gai gốc để đưa dắt chúng sanh đến con đường hạnh phúc an vui, và giải thoát hoàn toàn.Đức Xả Tâm của Phật thật là vô lượng, ân đức của Phật thật là vô biên. Sự hy sinh cao cả, đức xả tâm rộng lớn, ý tưởng sáng suốt, ý chí dũng mãnh của Ngài không những làm bao nhiêu trái tim hàng Phật tử mà còn cho tất cả mọi người.
Nếu chúng ta coi Ngài là một vĩ nhân, thì đó là một vĩ nhân trên hết các vĩ nhân của nhân loại từ xưa đến nay. Nếu chúng ta quan niệm Ngài là một bậc siêu nhân thì đó là một bậc siêu nhân cao hơn bao nhiêu bậc siêu nhân khác. Nếu chúng ta coi cuộc đời của Ngài là sự thị hiện của Phật, thì đó là sự thị hiện đẹp nhất và đầy đủ ý nghĩa hơn hết trong các sự thị hiện. Cho nên không những đối với tín đồ Phật giáo mà đối với toàn thể mọi người, đức Phật đáng được kính cẩn, tôn sùng và chiêm ngưỡng. Chúng ta, những người đệ tử của Phật, ai cũng biết đời đức Phật là đẹp đẽ, cao cả, bài học của đời Ngài là quý báu, sâu xa, nhưng nếu chúng ta không cố gắng học tập đức hạnh như Ngài thì bài học dù hay ho quý báu bao nhiêu cũng vô ích. Phải không hỡi các bạn?
Đức Phật trước khi nhập diệt đã dặn chúng ta một câu cuối cùng: “Mọi vật ở đời không có gì quý giá, thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có đạo ta là quý báu, chỉ có chân lý của đạo ta là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn buông xả để giải thoát”. Vậy, điều kiện trọng yếu nhất của giải thoát là sự buông xả. Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy trong sự tu hành.
(18:18) Hai, gương hạnh xả tâm Của đức Trưởng lão Thông Lạc. Đức Khổng Tử nói: “Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả”, nghĩa là: Ta chưa thấy người nào chuộng đức hạnh như chuộng sắc đẹp cả. Đức Khổng Tử bấy giờ vì nhận thấy người chuộng đạo đức và hạnh kiểm không được yên tâm bằng kẻ yêu chuộng sắc đẹp, cho nên Ngài đã thở dài và than rằng: “Từ trước đến nay ta chưa từng gặp được một người nào hâm mộ đạo đức giống như hâm mộ sắc đẹp vậy!”.
Còn Nguyên Thanh tôi thì chứng kiến thấy một người rất mến chuộng đạo đức còn hơn mến chuộng sắc đẹp như Khổng Tử đã nói ở trên, đó chính là Trưởng lão Thích Thông Lạc. Tôi nhớ có một bài kinh dạy rằng: “A-la-hán chư lậu dĩ tận, vô phục phiền não, đãi đắc kỷ lợi, tận chư hữu kết, tâm đắc tự tại”, nghĩa là bậc A-la-hán đã hết lậu không còn phiền não, đạt đến chỗ lợi mình, hết mọi hữu kết, tâm được tự tại. Đó là cảnh giới của bậc A-la-hán chứng đạo.
(19:43) Bây giờ chúng ta hãy cùng tìm hiểu sơ lược ý nghĩa trong đoạn văn trên. “Chư lậu dĩ tận” tức là hết các lậu. “Chư lậu” ở đây bao gồm sự nói nhiều, nghe nhiều, và nhìn hình sắc nhiều, khởi vọng nhiều. Thầy tu chứng nên tâm Thầy xả sạch các lậu này.
Thế nào là các lậu và không lậu? Nói một cách vắn tắt thì bất lậu là “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”, nghĩa là trái với lễ giáo thì đừng nhìn, trái với lễ giáo thì đừng nghe, trái với lễ giáo thì đừng nói, trái với lễ giáo thì đừng làm. Ở đây “lễ” tức là quy củ, phép tắc mà quy củ phép tắc thì chúng cũng là giới luật. Nếu chúng ta không nhìn những gì trái với lễ nghĩa thì mắt của chúng ta được thanh tịnh, không nghe những gì trái với lễ nghĩa thì tai của chúng ta được thanh tịnh, không nói những lời trái ngược với lễ nghĩa thì lưỡi của chúng ta được thanh tịnh, không làm những điều trái ngược với lễ nghĩa thì thân của chúng ta được thanh tịnh.
(21:00) Khi sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý ấy đều thanh tịnh thì không còn lậu nữa. Có lậu thì cũng giống như chiếc bình đựng nước có một lỗ làm cho nước trong bình chảy ra ngoài khiến bình vĩnh viễn không thể nào chứa đầy nước được. Đối với Trưởng lão Thông Lạc, Ngài đã xả sạch các lậu hoặc phiền não này một cách rốt ráo viên mãn. Đối với việc tu đạo, “lậu” chính là phiền não và tánh nóng, sân hận. Nếu chúng ta tu được một chút công mà lại bị dục vô minh đốt sạch thì chúng ta vĩnh viễn không thành đạo quả. Mọi người phải lưu ý điểm này và phải tu hành một cách thận trọng.
Tâm Trưởng lão Thông Lạc thì “như như bất động”, trong thì không có dục gì, đó là trạng thái không còn lậu. Nếu bề ngoài tuy là bất động mà bên trong vẫn còn bị động, như thế tức là vẫn còn lậu. Nói cách khác, nếu còn ý tưởng theo dục gì, còn hành động theo dục vọng là còn lậu. Đối với Trưởng lão Thông Lạc, tâm Ngài xả sạch lậu hoặc, ly dục, ly ác pháp. Thầy đã lọc sạch hết những thứ cặn bã, chỉ còn lại tinh khôi mà thôi. Do đó mới nói rằng Thầy đã hoàn toàn không còn các lậu hoặc nữa.
“Vô phục phiền não” không còn phiền não. Thầy thì không còn phiền não nữa, Thầy xả sạch phiền não. Làm thế nào để hết phiền não? Phương pháp của Thầy là nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng; ăn, ngủ, độc cư. Chính là nhờ tâm xả như thế nên không còn nên tập các lậu hoặc không còn phiền não nữa. “Mạc đắc kỷ lợi”, nghĩa là đạt tới chỗ lợi mình. Thầy đã đạt được tới sự lợi ích của thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Nghĩa là lấy niềm vui trong thiền định làm thức ăn, tràn đầy sự thanh thản, an lạc và vô sự nơi pháp Phật.
(23:18) “Tận chư hữu kết” nghĩa là Trưởng lão chấm dứt hết mọi hết hữu kết đoạn dứt hết tham, sân, si do phiền não mà kết tập sanh tử. Nếu chúng ta có thể dẹp hết những thói hư tật xấu, rửa sạch những phiền não đã tích tập lại với nhau và dứt hết mọi vấn đề tham, sân, si tức là chúng ta hết mọi dục kết, chấm dứt được sanh tử.
“Tâm đắc tự tại”, tâm được tự tại. Vì sao được như vậy? Vì tâm được an lạc, tự tại. Vì sao tâm được an vui tự tại? là vì Thầy đã xả hết các lậu không còn phiền não, đạt đến chỗ lợi mình, hết mọi hữu kết. Đây là con đường đi đến sự đoạn các lậu hoặc.
Nhờ hiểu biết như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của Thầy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát, Thầy đã biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm. Sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa”. Đức Xả Tâm của Thầy Thông Lạc đã đi đến con đường rốt ráo, xả khổ, xả lạc, xả niệm thanh tịnh, tịnh chỉ được hơi thở, làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người.
Còn tâm của chúng ta thì sao? Là “tha tại” chứ không phải là tự tại. “Tha tại” có nghĩa là thân thì ở đây nhưng tâm lại không ở đây. Không bị Nam Truyền thì cũng tới Bắc Khuất, không nhớ Đông Tây thì cũng mơ Nam Bắc, từ đầu đến cuối chẳng có lúc nào ngừng nghỉ cả. Những vọng tưởng lăng xăng ấy đã đủ già đi và để cho cái sắc trần lao từ bên ngoài vào nắm quyền làm chủ cho nên tâm không tự tại. Tự tại tức là tâm không còn tạp niệm, thanh tịnh tỏa ánh sáng rực rỡ soi rõ trời đất, hay thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
(25:26) Đoạn kinh trên vô cùng quan trọng cho nên chúng ta cần phải ghi nhớ, không được lãng quên. Nếu nghiên cứu phần kinh văn ấy cho tường tận thấu đáo, chúng ta sẽ được giải thoát sanh tử, xả tâm rốt ráo như Trưởng lão Thông Lạc. Không chứng được quả A-la-hán thì tâm sẽ không thể tự tại. Chỉ khi nào chứng được quả A-la-hán, diệt được các trần lao, dẹp bỏ được phiền não thì lúc ấy tâm mới được tự tại, tâm mới được xả dục ly ác pháp.
Hôm nay tôi nhắc đến gương hạnh của đức Thầy để chúng ta thấy rõ Thầy là người xả tâm, ly dục ly ác pháp độc nhất trên thế giới này sau khi Phật Thích Ca nhập diệt; 2550 năm thì mới có một con người giống như Phật. Gương hạnh của Thầy thật cao cả biết bao. Sự khoan dung, nhẫn nhục và hiểu biết là những đức hạnh đáng kính trọng của Thầy, tình thương yêu nhân loại và sự cảm thông với người khác là không có giới hạn, mà tình thương yêu của Thầy còn mở rộng đến tất cả sự sống của chúng sanh. Quả thực, Thầy là một người nhưng là một người phi thường. Thầy không phải sanh ra là một A-la-hán nhưng Thầy tự phấn đấu rồi thành A-la-hán. Thầy nhận thức được khả năng tiềm ẩn và năng lực sáng tạo của con người mà không tự đề cao Thầy như thần Thánh, khuyên dạy các học trò tích cực noi gương Thầy để xả tâm ly dục ly ác pháp.
(27:07) Thầy là nhà tư tưởng sâu sắc nhất, diễn giả có tài thuyết phục nhất, người làm việc đầy nghị lực nhất, nhà cách mạng thành công nhất, một vị đạo sư có lòng từ bi và khoan dung, nhà quản lý hành chánh có năng lực nhất, đặc tính quan trọng nhất của Thầy là sự thanh tịnh tuyệt đối và đức tính hoàn hảo.
Thầy rất hoàn hảo khiến người ta gọi Thầy là bậc Thánh thiện nhất trong các bậc Thánh. Đức xả tâm của Thầy đã khiến Thầy trở thành bậc mô phạm tất cả các đức hạnh, không bao giờ Thầy tỏ ra giới hạnh yếu kém. Những ai đã tiếp xúc với Thầy đều phải công nhận sự vĩ đại không thể nghĩ bàn về đức xả tâm của Thầy Thông Lạc. Thầy ăn ngày một bữa, tối ngủ trên tảng đá lạnh, ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không và đạt nhiều ảnh hưởng sâu sắc bởi nếp sống giản dị thanh bần của Thầy, thiện chí, trí tuệ, từ bi, phục vụ, từ bỏ thế tục, sống cuộc đời buông xả, phương pháp giảng dạy những bài đạo đức nhân bản của Thầy rất có kết quả.Nơi Trưởng lão Thông Lạc, chúng ta thấy trí tuệ bậc thầy từ phương Đông không thua kém ai về ảnh hưởng với tư tưởng và đời sống của loài người và thiêng liêng đối với tất cả.
Thầy là người đầu tiên làm sống lại đường lối Chánh Pháp Nguyên Thuỷ ảnh hưởng đến sâu rộng hầu như không thua kém thời kỳ của đức Phật. Thầy thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới, là tài sản chung cho tất cả những người có văn hoá, có phần tri thức chân chánh, tinh thần nghiêm chỉnh và tự giác, chắc chắn Trưởng lão Thông Lạc là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.
Nơi Trưởng lão Thông Lạc, các bạn thấy rõ Đức Xả Tâm của Thầy giống như thời đức Phật ngày xưa, ba y một bát. Thầy là một con người đơn giản, chân thành, độc lập, phấn đấu vì ánh sáng một nhân vật sống chứ không phải là thần thoại. Thầy cũng có bức thông điệp gửi cho nhân loại sống một cách hoàn hảo thì tư tưởng tương đồng với thông điệp từ bi hỷ xả của Thầy. Tất cả những đau khổ bất mãn trong cuộc sống theo Thầy đó là do lòng ích kỷ.
(29:41) Con người muốn có cuộc sống thanh tịnh thì trước hết người đó phải từ bỏ sống theo cảm giác hoặc cho riêng mình, tâm người đó phải diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp, rồi người đó mới trở thành một vị Thánh nhân. Nói cách khác, Thầy kêu gọi lòng vị tha của con người phải biết thương yêu nhau, đừng làm khổ mình, khổ người. Thầy cũng tỏ ra sáng suốt hơn ai trong sự quan tâm phục vụ và hy sinh cho con người, mọi kiếp mơ hồ với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh.
Thầy nhấn mạnh sự quan trọng của giới hạnh để xả tâm là phương tiện đi tới mục đích. Thầy khuyên nên tu tập Chánh kiến, Chánh Tư Duy, về lòng vị tha nhân ái, tránh không hãm hại người, Chánh Ngữ để có thể kiểm soát giọng lưỡi tác hại của mình; Chánh Nghiệp bằng cách kìm hãm không giết người hay động vật, không trộm cắp trực tiếp hay gián tiếp; không tà dâm và Chánh Mạng là thoát khỏi bị cắt lột và bị phẫu thuật bằng bất cứ phương tiện gì, bất hợp pháp để trộm cắp của cải hay tài sản, những dạng thức này hình thành nền tảng của giới hạnh đức xả tâm.
(31:04) Thầy truyền đạt những bài đạo đức nhân bản - nhân quả về sự vị tha giới hạnh và lòng từ bi vô bờ bến. Không những thế, các giới tri thức và thông thái trước Phật, người giàu có cũng cho người nghèo, người cùng đinh, người giàu có hàng phục cho người nghèo, người cùng đinh và khốn khổ, Thầy giúp cơ hội đồng đều cho tất cả mọi người, và nâng cao địa vị của con người trong lớp xã hội. Thầy tuyên bố: "Con đường đi đến phát triển tinh thần mở rộng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, sang hay hèn, thánh nhân hay tội lỗi, bất cứ ai muốn cải tà quy chánh và tìm sự toàn đức”.
Thường ngày Thầy thuyết giảng cho tất cả các Tăng Ni và cư sĩ; điều mà Thầy dạy chỉ là một phần nhỏ của những điều mà Thầy biết. Thầy chỉ dạy những điều cần thiết cho sự tu tập như pháp xả tâm, diệt ngã, ly dục, ly ác pháp là cần thiết cho sự giải thoát của chúng ta. Công việc hằng ngày Thầy tập trung vào việc giúp đỡ con người, Thầy chỉ dẫn cổ vũ các đệ tử quy y, tu tập để nghe Thầy giảng. Thầy trình bày chi tiết về giáo pháp, Thầy dạy những bài đạo đức nhân quả cho quần chúng và những nhà tri thức. Lời Thầy dạy như sữa cho em nhỏ và như thức ăn cho người lớn.
(32:31) Trước khi thuyết pháp, Thầy thấy rõ người đó cần được ăn thực phẩm cần thiết cho cơ thể, thì những bài đạo đức của Thầy cũng cần thiết cho nội tâm. Thầy chăm sóc cho người bệnh bằng chính bàn tay mình, Thầy tuyên bố: “Ai chăm sóc người bệnh tức là người đó chăm sóc Trưởng lão Thông Lạc”. Thầy thiết lập một xã hội không giai cấp bằng cách mở cửa cho toàn thể Tăng Chúng, cho bất kỳ cá nhân nào muốn gia nhập, không phân biệt giai cấp hay đẳng cấp xã hội, chỉ có sự phân biệt là người nào giữ gìn ăn, ngủ, độc cư trọn vẹn thì người đó mau chứng quả Thánh A-la-hán.
Thầy là hiện thân của đức hạnh lý tưởng. Ở nơi Thầy chúng ta thấy sự hiện thân của luân lý cao nhất là Giới, tập trung sâu xa nhất là Thiền định và Trí tuệ thâm sâu là Tam Minh. Những đức tính không ai vượt qua được và không so sánh được trong lịch sử của loài người. Những đức tính cao cả của Thầy đã được thể hiện qua các bài đạo đức Nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người. Thầy là người rất khoan dung. Không khoan dung là kẻ thù lớn của tôn giáo, cho nên Thầy khuyên các đệ tử không nên giận dữ, bất mãn, hay không vừa lòng khi các người khác nói xấu Thầy, hay chỉ trích phê phán giáo lý Nguyên thuỷ, hay các Tăng-Ni. Nếu bạn tỏ ra bất bình, Thầy nói: “Không những bạn tự mang bạn đến nguy hiểm mất tinh thần, mà bạn còn không thể suy xét người ấy nói đúng hay sai”.
(34:17) Thầy giải thích không có tín điều nào mà ta phải mù quáng tin theo, không có tín điều hay tín ngưỡng nào mà ta phải chấp nhận mà không suy luận, không nghi thật, hay các cuộc lễ dị đoan bắt ta phải gia nhập vào nhóm người cùng chung niềm tin. Và không có sự hiến tế và sự hành xác vô nghĩa cho ai muốn thanh tịnh. Thầy trình bày chân lý đơn giản cho quần chúng và lời dạy triết lý sâu xa cho người trí thức. Thầy khuyên những người đó tìm chân lý, không nên chấp nhận bất cứ điều gì do thế lực hay lý do gì khác mà phải tự mình suy luận và phán xét điều đó hay sao.
Hai mươi sáu năm qua trên chặng đường hoà bình hoằng pháp của Thầy đã không có một giọt máu đổ trong việc truyền bá giáo pháp và không một ép buộc đổi đạo bằng sức mạnh hay những phương pháp xảo trá. Quả thật, Trưởng lão Thông Lạc là một nhà truyền giáo vĩ đại nhất đã từng sống trên trái đất này. Những bài đạo đức nhân bản - nhân quả của Thầy đã lan tỏa và vẫn đang kiến tạo hòa bình đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Do tính cách hợp lý, khả thi, cũ kỹ, không quá khích, bao dung và đại chúng, Chánh Pháp Nguyên thuỷ đóng góp to lớn cho sự tiến bộ văn hoá của nhiều quốc gia Châu Á. Tóm lại, các quốc gia càng ngày càng lớn mạnh trong cái nôi đạo Phật Nguyên thuỷ.
Trưởng lão Thông Lạc là nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử loài Người với một cuộc đời còn ít, không hề sai lầm, không chê trách và không tì vết. Thầy đã chiến thắng tất cả Ma vương và đạt Thánh quả ở bậc cao nhất. Thầy chấm dứt tất cả khổ đau, đạt Niết Bàn, Thầy là nhân vật được toàn Thế giới vinh danh và tôn kính trên mọi phương tiện. Những bài đạo đức Nhân bản của Thầy không chứa đựng huyền bí hay bí mật giống như một cuốn sách lật ra cho tất cả ai muốn đến xem. Trong quyển sách ấy có dòng chữ lớn là Đức xả tâm - ly dục ly ác pháp.
(36:37) Ba, Đức Xả Tâm Là viên thuốc trị tâm bệnh của Chúng sanh. Muốn trị bệnh thì phải săn tìm nguyên nhân; nguyên nhân nào sanh ra những thứ khổ đó. Phật nói nhiều lắm, nhưng ở đây tôi chỉ kể sáu thứ: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Vì có nhân này nên có quả kia; thí dụ như tham, căn bản là tham sống. Có người nào không tham sống sợ chết đâu? Nhưng rồi cũng phải chết bởi vậy nên khổ. Bây giờ mình hết tham sống thì không sợ chết, mà không sợ chết thì đâu còn khổ.
Từ tham sanh bao nhiêu thứ khổ? Đức Phật chia ra làm hai thứ. Một là tham về Ngũ dục, hai là Ngũ trần. Tham ngã dục là tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Tài là tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là danh vọng, thực là ăn uống, thùy là ngủ nghỉ. Năm cái này để cho mình tham, từ những tâm tham này sanh ra các thứ khổ kia. Vậy chúng ta phải lấy thuốc gì để trị vi trùng tham?
Tham tài phải lấy hai thứ thuốc hoà hợp lại trị: Thuốc thứ nhất là “bố thí”, thuốc thứ hai là “vô thường”. Phật dạy tất cả tài sản của chúng ta bị Năm nhà quyết lấy. Năm nhà là gì?
1 - Nước lụt, 2 - Trộm cướp, 3 - Con bất hiếu, 4 - Lửa cháy, 5 - Vua chúa hay quan quyền tìm cách cưỡng đoạt.
(38:15) Như chúng ta nghe tin về núi lửa, sóng thần, thảm họa đã xảy ra; bao nhiêu năm dành dụm chỉ một cơn sóng thần ập vào bờ là hết sạch, không còn gì cả. Như vậy tài sản của chúng ta có bảo đảm không? Nên Phật nói nó thuộc về Năm Nhà. Nếu không bị sóng thần quét sạch thì có khi bị núi lửa thiêu cháy rụi. Không cháy thì bị trộm cướp. Không bị trộm cướp thì con bất hiếu phá hết sự nghiệp. Không bị con cái thì gặp những thế lực bên ngoài cưỡng bức cướp lấy. Tuy nói tiền bạc của cải của mình nhưng không bảo đảm giữ được lâu dài. Như vậy, tham để làm gì? Nghĩ đến lý vô thường thì chúng ta xả bớt tâm tham, xả tâm tham thì bớt khổ. Con người thường có tiền hễ tiền của trong tay thì được một đòi hai, được hai đòi bốn, muốn thêm hoài.
Ở đây Phật dạy phải xả, phải bố thí. Nếu nghĩ chúng ta có bao nhiêu đủ ăn rồi, phần dư bố thí cho người; như vậy là xả lòng tham. Nếu người dư dả đem bố thí vì biết rằng của cải giữ không được, không có tâm gom góp, chia sẻ thì xả được tâm tham tài. Rõ ràng có bệnh thì có thuốc. Biết được nguyên nhân vì tham tài mà cầu bất đắc nên khổ. Muốn nhiều của nhưng muốn hoài không được thì khổ. Bây giờ mình đem ra bố thí, không cần giữ gì nữa thì đâu còn lòng tham, mà không tham thì đâu có khổ.
Đối với người tham Sắc, Phật dạy dùng thuốc “Quán bất tịnh” để trị. Bởi vì khi tham sắc thì thấy người đẹp, tự nhiên chúng ta nghĩ ngợi người đó đẹp thế này, người đó quý sang thế nọ. Ngược lại, nếu chúng ta quán thân này bẩn thỉu không ra gì, thân mọi người cũng vậy. Quán đến khi mình gớm thân mình, thì thân người khác mình cũng gớm luôn; mà gớm thì hết tham. Đó là cách xả tâm tham sắc dục.
(40:30) Đến tham Danh phải dùng pháp “Quán vô thường”, bởi vì mọi thứ trên đời này được rồi sẽ mất. Ví dụ như người ứng cử Tổng thống được đắc cử thì bốn, năm năm cũng hết nhiệm kỳ, có còn mãi đâu. Bởi nó không bền, vì vậy phải quán vô thường, quán nó là khổ. Khi chưa được danh thì lo lắng chạy chọt đủ thứ đã là khổ; khi được rồi, lo nó mất lại khổ nữa, nếu thật sự nó mất thì càng buồn, cho nên có tham danh rất là khổ đau. Người không hiếu danh, dù được mời gọi cũng không muốn; nếu có làm gì thì dù danh lợi của mình đã vì tất cả lợi ích chung thì được không mừng, mà mất cũng không lo, như vậy mới không khổ.
Đến việc ăn cũng là gốc của khổ, phải dùng hai thứ thuốc để xả là “Vô thường” và “Bất tịnh” hoà lại. Hoà lại hai thứ thuốc này mới trị nổi được tham ăn. Thức ăn khi còn ở miệng thì ngon, nhưng nuốt qua khỏi cổ rồi thì hết ngon. Giả sử nó không chịu vào mà ựa ra thì có gớm không? Rất gớm! Bầy nhầy nước miếng. Như vậy có ngon khi còn ở ngoài, nuốt vô rồi nó cũng thành dơ, đâu phải là ngon. Tại vì chúng ta cứ mê say nên cho là ngon, nếu thấy nhơ nhớp thì đâu có tham. Lại gột rửa thức ăn ngon được bao lâu? Ví dụ tô bún riêu để lâu ngày nó cũng sẽ thành mốc meo thôi. Chỉ một hai phút ở trong lưỡi, trong miệng thôi, qua khỏi cổ thì hết ngon rồi. Nên nó tạm bợ vô thường, tham làm gì? Xét như vậy thì xả được tham ăn.
(42:22) Tới bệnh tham ngủ, đức Phật dạy muốn xả bệnh tham ngủ phải dùng thuốc “Vô thường” và thuốc “Tinh tấn” hòa lại thì mới trị nổi bệnh tham ngủ. Nên nghĩ mạng sống này không bao lâu, không có gì bảo đảm, giờ nào còn sống thì mừng giờ đó, qua giờ khác thì không thể biết được. Vì thân này rất mong manh rất tạm bợ, nên chúng ta chỉ sống có những việc nên làm, đáng làm mà không lo làm. Cứ nằm ngủ hoài! Nhà Phật có câu: “Cần tu như lửa cháy đầu”. Nếu đốm lửa rơi trên đầu thì chúng ta chần chờ hay phủi ngay? Vô thường đến bất kể lúc nào, chúng ta không thể lường trước được. Vì vậy, giờ nào còn sống còn khỏe thì nên làm tất cả những gì có thể làm, chứ không bỏ trôi ngày giờ lãng phí một cách vô ích. Như vậy vừa quán vô thường, vừa tinh tấn thì xả được bệnh tham ngủ.
Rồi tới bệnh Sân, thì xả bằng hai thứ thuốc “Từ bi” và “Nhẫn nhục” hòa lại thì mới trị nổi được bệnh Sân. Nhẫn nhục là giải quyết cấp thời khi người ta làm trái ý mình nổi sân lên rồi phải nhẫn “buông xả đi” thì gọi nhẫn nhục. Buông xả dừng được cơn thịnh nộ rồi nhưng lâu lâu nhớ lại cũng tức, nghĩ rằng người ta nói bậy làm quấy mình mới giận. Nhưng nếu chúng ta biết nghĩ lại, tại vì ngu si nên họ làm quấy thật đáng thương. Nghĩ như vậy mới hết giận luôn, chứ còn đè nén, mai sau nhớ lại giận nữa thì không được.
Cho nên có thuốc nhẫn nhục mà không có thuốc từ bi để xả tâm thì bệnh cũng dễ tái phát. Có nhẫn nhục rồi, phải có từ bi quán thêm sau đó, bởi vì nếu chúng ta có tình thương, thì dẫu nhiều thấy ít; nếu không thương thì dẫu ít thấy nhiều, không thể tha thứ được. Vì vậy phải thường nhẫn nhục và quán từ bi mới xả hết cơn nóng giận.
(44:34) Đến Si tức là Si mê. Si mê có hai tầng bậc:
Thứ nhất, không biết gì là tội, gì là phước, gì là tà, gì là chánh; không phân biệt rành rẽ đó là si mê hạng thấp. Tuy nhiên các bạn thử xét lại xem thiện ác chúng ta đã phân biệt rành chưa, đôi khi chúng ta tưởng như mình đã biết rành về thiện-ác, nhưng có nhiều cái thiện mà thành ác, ngược lại ác lại thành thiện. Thí dụ cô giáo phạt học trò lười, trốn học bài thì thấy như ác. Nhưng nhờ phạt nó sợ, cố gắng học, như vậy thì ác hay thiện? Còn giả sử như kẻ ghiền á phiện, có người thấy vậy mua á phiện đưa cho hút, như vậy thiện hay ác? Mới nhìn như thiện vì kẻ đang khổ, cho thuốc phiện họ đỡ khổ, nhưng sự thật thì ác vì làm cho họ ghiền hoài. Nên nhiều việc mới nhìn thấy thiện mà hậu quả lại ác; hoặc ngược lại, mới nhìn thấy ác nhưng hậu quả lại thiện.
(45:42) Vì vậy phân biệt thiện-ác cũng không phải dễ, phải có trí tuệ mới có thể phân biệt được. Phân biệt được Thiện-Ác mới phân biệt được tội phước, cái gì tội, cái gì phước. Nếu được việc làm giúp ích được người lâu dài thì có phước, còn việc làm trước mắt thấy như thiện mà tạo thành cái khổ cho người lâu dài thì trở thành ác. Như vậy thiện-ác thật khó xử khó giải quyết. Nhưng nếu chúng ta phân biệt được thiện-ác thì tội phước mới không lầm lẫn. Cũng vậy, đối với tà-chánh rất khó phân biệt. Có những trường hợp mới nghe như phải, như chánh nhưng rốt cuộc lại là tà.
Như có người trong đạo Phật rất cung kính Phật. Bởi quá cung kính nên rất tin đức Phật có đầy đủ vạn năng, xin cái gì cũng được, vì vậy mỗi khi có tai nạn hoặc vui buồn gì đó, cứ đến xin Phật cầu Phật. Quan niệm như vậy đã là thành tà. Cung kính Phật tại sao lại tà? Đó là vấn đề mà đôi khi Phật tử chúng ta không nhận ra. Đức Phật từng tuyên bố: “Ta không có quyền ban phước giáng họa cho ai”. Vậy chúng ta xin Phật cho hết tai hoạ thì có ngược lại lời Ngài nói không? Phật dạy một đàng, chúng ta làm một ngả. Không phải là tà thì là gì?
Trong đạo, người mắc kẹt chuyện này rất nhiều. Tu thì không chịu tu mà cứ xin Phật. Phật dùng pháp để xả tâm lượng mà chúng ta cứ xin là sao? Có nhiều người Phật tử nói: “Tôi theo đạo Phật mười năm rồi mà vẫn thế vì phiền não vẫn cứ thế. Tu mà không hết khổ thì đạo Phật vô vị, không có giá trị”. Như vậy kẻ ấy làm tăng giá trị đạo Phật hay làm giảm giá trị đạo Phật? Việc này thật tế nhị, nên các bạn phải hiểu tin Phật là nên tin điều gì và không nên tin điều gì.
(47:44) Người ta cứ ỷ lại vào Phật, cầu mong Phật cho cái này cái nọ. Được như vậy, ý thì nói Phật linh quá rủ nhau đi chùa, nếu không được như ý thì sao? Phật bây giờ không linh, bà Chúa Xứ linh hơn; đi tin bà Chúa Xứ thế là đã lạc vào đường tà. Phật dạy chúng ta phương pháp tu nếu có nóng giận nên tu pháp gì, đâu có cầu ai. Ứng dụng pháp Phật để tu thì phiền não giảm, đau khổ hết; như vậy, Phật cứu khổ cho mình rồi.
Muốn trị Si mê thì vận dụng tri kiến quán chiếu mới xả được. Bởi vì từ si mê người ta tạo đủ thứ nghiệp thì đủ thứ khổ. Nay muốn có tri kiến, chúng ta phải học Chánh Pháp và thực tập xả tâm thì mới dẹp được si mê.
(48:35) Phần thứ nhất, tôi nói về si mê cạn. Đến phần thứ hai, tôi nói về si mê sâu.
Si mê sâu là giả mà tưởng là thật, cái thật lại không biết. Như thân này là bất tịnh, là vô thường, là giả mà tưởng thật; đó là si mê sâu. Si mê sâu này rất nguy hiểm vì chấp giả làm thật nên không bao giờ biết được cái thật. Như chấp thân này là có thật, như chấp tâm này thì nghĩ đủ thứ chuyện lăng xăng thì làm sao tâm có thật được, cái không có thật. Chỉ khi nào xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì mới là tâm có thật. Còn bây giờ chấp đủ thứ chuyện phiền não, làm sao thấy cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự được.
Tâm theo cảnh là tâm tạo nghiệp; dù thương giận ghét là mình tạo nghiệp. Nếu không nghĩ ngợi lăng xăng thì có buồn thương giận ghét đâu có sanh diệt. Không sanh diệt mới là cái chân thật của mình. Lúc đó tâm xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh rồi thì đó mới là cái tâm chân thật vốn có của chúng ta. Do đó si mê phần thứ hai này chấp sâu. Phần thứ nhất mình nói còn có thể biết liền, còn thứ si mê này âm thầm, Phật gọi đó là vô minh.
Đối với si mê cạn thì chúng ta dùng tri kiến hữu học phân biệt chánh tà. Đối với si mê sâu chấp giả làm thật thì phải có công phu tu. Từ tri kiến do huân tu mới nhận ra lẽ thật là phải xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh; đây là nhân giải thoát sanh tử.
(50:20) Tóm lại, muốn xả bệnh Si mê phải dùng thuốc “Tri kiến” và “Giới luật” mới trị nổi. Tri kiến là trí hữu học, còn giới luật để tăng trí vô sư như chỉ thắp đèn mới phá được bóng tối. Nếu không như thế thì làm sao phá được phiền não. Cho nên người học Phật không có tri kiến thì không làm sao phá được phiền não. Vì tri kiến và giới luật phá được si mê, mà si mê sanh ra phiền não, si mê chấp thân, si mê chấp tâm; bao nhiêu khổ đau theo đó mà ra.
Đến trị bệnh Mạn, tức là Ngã mạn. Tại sao chúng ta có bệnh khinh mạn hay ngã mạn này? Vì một là chấp thân, hai là chấp tâm, không chịu xả nên mới có ngã mạn cống cao. Nói theo lối thông thường có hơi thô một chút là phách lối, lấn lướt, hiếp đáp người. Vì ỷ tiền tài, tài năng và quyền thế của mình khinh rẻ người đáng kính, người già cả, không kể người phước đức, còn hiu hiu tự đắc, coi không có người, “mục hạ vô nhân” nên chẳng ai ưa. Vì lòng ngã mạn cho mình là hơn trí, không kính phục người nhưng chẳng học hỏi, do khinh dễ người nên bị tổn phước. Vì thế mà phước lành tổn giảm, tội lỗi càng ghê nên phải sanh tử luân hồi không bao giờ cùng tột.
Vì một là chấp thân, hai là chấp tâm nên mới sanh ra ngã mạn cống cao. Ví dụ, người đẹp và sang thì thấy ta hơn thiên hạ, hoặc vì thông minh học giỏi cũng thấy ta hơn người, hoặc thấy mình tu giỏi cũng thấy ta hơn người. Từ hai thứ chấp thân chấp tâm, thân đẹp thì cho là quý, tâm lanh lợi thì cho là khôn ngoan; đó là những cống cao ngã mạn.
(52:19) Bệnh này phải dùng “phá ngã” để trị. Phá ngã có hai: Về thân thì do tứ đại hoà hợp, về tâm thì tất cả suy nghĩ đều là vọng tưởng. Có gì đâu mà chấp!
Thân này là bất tịnh hôi hám bẩn thỉu, thân này là không thật mà trọng mình khinh người là điều vô lý. Nên dùng pháp quán vô ngã, thân tứ đại duyên hợp nên không có ngã thật. Tâm cũng là bóng dáng của ngoại trần, nên cũng không thật. Có gì là khôn, có gì là dại, có gì là hơn thua nhau? Lấy vô ngã để trị ngã mạn. Người học Phật nên tự kiểm khảo mình. Nếu có ngã mạn cống cao thì phải cố gắng dẹp trừ đi. Như thế mới là người tu chân chánh có Đức Xả Tâm.
Đến bệnh Nghi là nghi ngờ. Đối với đạo lý chân chánh lại nghi ngờ, không tin. Hiểu pháp tu giải thoát là bài phước thiện, lại do dự chẳng làm. Đó chướng ngại lòng tin cản trở việc từ thiện. Nghi có ba phần:
1 - Nghi mình. Như nghe nói tu hành để được giải thoát rồi mình nghi ngờ không biết mình có tu được hay không. Vì lòng nghi ngờ do dự ấy nên không chịu tu.
2 - Nghi người, như nghi người dạy mình. Như có người dạy ta làm lành được phước, làm ác sẽ bị tội. Chúng ta nghi không biết người ấy nói có thật hay không. Bởi nghi nên không làm.
3 - Nghi pháp. Khi nghe lời Phật dạy nghi không biết Phật có thật không, pháp Phật dạy có đúng không, các thầy tu có thật không? Do nghi như vậy nên đối với Tam Bảo mất hết lòng tin.
Đã nghi mình, nghi Phật, nghi người thì làm sao tiến được? Cho nên muốn hết nghi phải lấy thuốc “Chánh tín” để xả, tức là lấy lòng tin. Lòng tin ở đây là từ tri kiến mà có chứ không phải tin mù quáng. Bởi, tin có hai phần: Tin do tri kiến gọi là Chánh tín, tin một cách mù quáng gọi là mê tín. Sự tin này cần phải hiểu cho rõ ràng.
(54:31) Dùng Chánh tín là tin chân chánh để dẹp cái nghi. Chánh tín là tin thế nào?
Một là tin Tam Bảo bằng tri kiến - đức Phật có thật hay không, chúng ta phải tra khảo tìm hiểu cho rõ. Khi nào biết thật có đức Phật là con người tu hành thành đạo thì đó mới gọi là tin Phật.
Thứ hai là tin pháp của Phật. Pháp này đúng thật hay huyền ảo, yếm thế, hoặc sai với chân lý. Nếu đúng thì chúng ta mới tin pháp.
Thứ ba là Tin Tăng, những vị xuất gia tu theo Phật gồm Tăng, Ni. Các vị ấy có tu chân chánh hay không, có phạm hạnh hay không, có hiểu đúng giới luật hay không, xét nghiệm thấy hoàn toàn chân chánh đối với pháp của Phật mới tin.
Nhờ biết nhận định từ tri kiến nên gọi là Chánh tín. Vì vậy Phật dạy: “Phải văn, tư, tu”. Xét đủ thì mới có lòng tin Tam Bảo. Tin Tam Bảo là tín tha, kế đến phải tự tín tức là phải tin nơi mình, tin chắc là mình có thể tu được. Nhờ tin như vậy nên mới cố gắng tu. Nếu không như vậy thì chúng ta sẽ sợ việc ăn chay, rồi ăn ngày một bữa không nổi, ngồi thiền không nổi. Không tin mình thì không thể làm gì được mặc dù tin Tam Bảo. Cho nên tin Tam Bảo còn phải tự tin nữa.
(56:30) Những việc Phật làm được, Trưởng lão Thông Lạc làm được, chúng ta cũng làm được, mình sẽ tu được không thua ai. Lòng tự tin phải mãnh liệt như vậy, chúng ta phải lấy thuốc Chánh tín để xả được nghi ngờ.
Nói tóm lại, vì lòng nghi ngờ nó cản trở nhiều tiến triển. Những người có tính đa nghi, đối với bạn bè họ thấy không có ai là người tin cậy, trong gia đình họ thấy không có người nào là thân mật. Chúng ta nên cẩn thận đề phòng mọi việc, không phải cương quyết dẹp trừ tánh nghi ngờ. Như thế gọi là Đức Xả Tâm.
Cuối cùng là Ác kiến. Trong phần Ác kiến có: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Tà kiến.
a. Thân kiến: là chấp Thân Ngũ Uẩn, tứ đại giả hợp này là Ta, hoặc nghe theo lời tà giáo nói người có ba hồn bảy vía lên hồn khế phách, rồi chấp ba hồn bảy vía đó là Ta. Vì chấp ta thật có nên kiếm món này vật nọ để cho ta ăn, sắm kiểu kia cách nọ để cho ta mặc, lo cất nhà cửa mua ruộng vườn để cho ta dùng, tranh danh đoạt lợi mỗi bữa cũng vì Ta! Không những lo cho ta mà còn lo cho cả gia đình quyến thuộc, gia tộc của ta nữa. Vì chấp Ta mà tạo ra nhiều tội lỗi, lo tranh đoạt lợi cho ta hưởng, xâu xé cướp giật nhau để cho quốc gia xã hội ta dùng. Vì thế nên thế giới đạn bay như mưa, bom nổ như pháo, máu chảy thành sông, xương chất tợ núi.
Chúng ta phải quán xét quan sát thân này giả hợp không thật có. Hễ phá trừ Thân kiến rồi, thì tánh ích kỷ vị ngã không còn, nên không tạo những điều tội lỗi vì bản ngã; như thế mới là Đức xả tâm.
(58:27) b. Biên kiến là chấp một bên, hoặc chấp chết rồi còn hoài, hay chấp chết rồi mất hẳn.
Một, vì chấp có Ta nên có người chấp ta chết rồi còn hoài không mất. Người chết vẫn sanh làm người, thú kiếp vẫn sanh trở lại thú, Thánh nhân chết trở lại thành Thánh nhân. Vì chấp như vậy nên chẳng sợ tội ác mà cũng không cần tu thiện. Bởi họ cho tu cũng vậy mà không tu cũng vậy. Do chấp cái “Ta” thường còn không mất có hại như thế, cho nên trong kinh Phật gọi là “Thường kiến Ngoại đạo”.
Hai, có người chấp chết rồi mất hẳn, vì họ thấy ngoài thế giới mênh mông không gian vô tận, chết rồi mình mất chứ có thấy tội phước gì đâu, thấy đời sống của mình chết rồi không còn giá trị gì hết, nên mặc tình làm những điều tội lỗi. Họ nói rằng: “Tu nhân tích đức già rồi cũng chết, hung dữ bạo ngược tận số cũng không còn”.
Biết bao người vì chấp chết rồi là hết, nên mỗi khi gặp cảnh duyên nghịch lòng, nhất là tình duyên trắc trở, họ không trầm tĩnh sáng suốt tìm phương pháp để xử trí. Cứ cho chết rồi là hết khổ đau nên họ tự liều mình với chén thuốc độc hay dòng sông sâu, chứ họ không biết rằng chết rồi đâu có phải là hết khổ! Bởi họ chấp “chết rồi mất hẳn” có hại như vậy nên đạo Phật gọi là “Đoạn kiến Ngoại đạo”. Thật ra người chết không phải thường còn mà cũng không phải mất hẳn, mà theo nghiệp lực lành hay giữ mà tái sanh. Chúng ta phải phá trừ hai mối chấp như vậy gọi là Đức xả tâm.
(1:00:13) c. Kiến thủ - Kiến thủ là bảo thủ sự hiểu biết sai lầm của mình. Ở đây có hai cách:
Một, là hành vi của mình sai lầm, ý kiến lại thấp thỏi nhưng không tự hiểu biết, lúc nào cũng bảo thủ cho là mình là hay giỏi, đúng đắn hơn hết; ai nói cũng chẳng nghe. Hai, biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là dở nhưng cứ bảo thủ cái sai và cái dở ấy, không chịu thay đổi. Như có người ông bà trước đã lỡ theo tà đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà nhưng cứ theo như vậy mãi không đổi; họ bảo rằng: “Xưa sao nay vậy”. Hay như có người cha mẹ trước có làm nghề tội lỗi, qua đến đời con cứ bảo thủ nghề ấy không chịu thay đổi.
Nói cho rõ hơn là những tục lệ trong thế gian như mỗi năm phải làm trâu bò để tế thần; khi người chết, phải làm heo bò cúng kiếng mỗi kỳ tuần tự hay giỗ quảy phải đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần, kho… mỗi năm phải tụ họp để cúng tà thần ác quỷ. Người học Phật phải dẹp trừ Kiến thủ, như thế mới gọi là Đức xả tâm.
d, Giới Cấm Thủ - Giới cấm thủ là giữ theo giới cấm thủ theo ngoại đạo, tà giáo. Cấm một cách vô lý, không phải nhân giải thoát mà chấp là nhân giải thoát. Như bên Ấn độ có những phái ngoại đạo leo lên cây cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, ngâm mình dưới nước, hoặc đứng một chân, tu hạnh con chó, tu hạnh con bò, v.v. và v.v. Có đạo mỗi năm phải giết một người tế thần như đạo của anh chàng Vô Não phải giết cho đủ 1000 người mới đắc đạo. Người học Phật phải dẹp trừ Giới Cấm Thủ; như thế mới gọi là Đức xả tâm.
e, Tà Kiến - Thường người ta nói tà là lệch, là nghi kiến. Ở đây không phải thấy mà nhận định. Tà kiến là nhận định một cách rất sai lầm. Thí dụ như nói chết là hết, hoặc cho rằng chết rồi là linh hồn vẫn còn hoài, A trở lại làm A, muốn kiếp vẫn là A thôi. Đây là Tà Kiến. Vì một bên chấp Đoạn kiến, một bên chấp Thường kiến.
(1:02:34) Ngoài ra như chuyện đến núi Sam xin vay tiền Bà Chúa Xứ làm ăn vừa thuộc về mê tín vừa là Tà kiến. Nếu nói Bà Chúa Xứ linh thiêng, ai vay tiền Bà đều phát đạt hết thì từ Long Xuyên lên Châu Đốc mọi người phải giàu hết vì họ ở gần, dễ chạy lên vay; nhưng thực tế xét kỹ từ Long Xuyên lên Châu Đốc, hay vùng lân cận được bao nhiêu người giàu? Lẽ ra từ gần tới xa nhưng ở gần đã không can gì, thì ở xa làm sao xin được. Tin như vậy là tin nhảm nhí, tin tà kiến. Tà kiến ngay con người mình, cứ nghĩ mình có linh hồn, mình chết rồi linh hồn còn lên trở lại làm người; nhà Phật gọi như thế là Tà kiến vì chấp Thường kiến. Còn cho rằng chết là hết, không có nhân quả báo ứng gì cả, thì thuộc về Đoạn kiến cũng là Tà kiến.
Trong đạo Phật không nói còn mãi, cũng không nói chết là hết. Cái quan trọng là phải làm sao nhận ra nơi con người mình phần nào sanh diệt, phần nào không sanh diệt. Nhận ra như vậy rồi phải làm sao cho phần không sanh diệt không bị phủ che. Còn trên mặt sanh diệt nói còn hoài là sai, nói hết cũng sai bởi vì lâu nay người ta hay nói cái gì mất rồi là hết, nhưng sự thật không hết. Tất cả đều là một vòng chuyển biến tụ tán. Kể cả các hình thức nhỏ nhất như bụi cát, cục đất to đập nát thành cục nhỏ. Nhìn cục đất thì thấy mất, nhưng nó thành cát bụi chứ không mất, chỉ biến chuyển đổi hình đổi dạng thôi. Thân này cũng vậy, khi hoại đất trả về đất, nước trả về nước, gió trả về gió, lửa trả về lửa chứ không mất không hết.
(1:04:27) Vậy mà chúng ta thường nhận định sai lầm chết là hết; đó là Tà kiến. Nên người tu theo Phật phải biết từ thể xác đến tinh thần thì tuỳ nhân quả. Mỗi một hành động thiện hay ác từ trong thân, khẩu, ý lưu xuất ra cũng tạo nên vô số con người đi tái sanh. Cho nên chốn luân chuyển tụ bên này tan bên kia chứ không hết, tùy nhân luân chuyển, vì thế khi tu tập đến giai đoạn rốt ráo phải xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì mới chấm dứt tái sanh. Tại sao vậy? Vì nếu còn một niệm thanh tịnh, không chịu xả thì vẫn còn nhân tái sanh luân hồi. Nên đức Phật giảng bài kệ:
“Không phải thở ra thở vào,
Chính tâm trú Chánh Định,
Không tham ái, tịch tịnh,
Tu sĩ muốn diệt độ,
Chính tâm tịnh bất động
Nhận chịu mọi cảm thọ,
Như đèn sáng chợt tắt,
Tâm giải thoát hoàn toàn.”
Hai câu kệ đầu trong bài này tán thán Phật nhập Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở, rồi xả trạng thái Tứ Thiền để vào Niết Bàn của Tôn giả A Nậu Lâu Đà (trang 667, Tạng kinh Việt Nam).
(1:05:42) Biết rõ nguyên nhân tạo thành luân hồi như vậy mới có thể chặn đứng nó lại. Hiểu thế mới tu giải thoát sinh tử. Nhiều người nói tu để giải thoát Sinh tử nhưng hỏi giải thoát cái gì, làm sao giải thoát thì không biết. Nếu chấp thân sanh diệt là thân mình, chấp tâm sanh diệt là tâm mình, đó là tiếp tục tạo nghiệp luân hồi không bao giờ dừng. Còn không chấp hai thứ đó, mình sống được với cái Tâm thanh thản an lạc và vô sự chân thật, không phân biệt của mình thì không tạo nghiệp đó là giải thoát, không bị lôi cuốn đi trong sanh tử nữa.
Có người hiểu lầm đạo Phật nói đạo Phật là đạo cứu khổ, nhưng sao quý thầy ít làm việc từ thiện hơn người tu đạo Thiên Chúa. Chỉ thấy quý sư thầy cả ngày ngồi thiền nhập thất, tu như vậy thì cứu khổ chúng sanh chỗ nào? Bởi vì cái nhìn đạo Phật khác đạo Thiên Chúa. Thí dụ như đứa bé ra bãi biển vun cát làm núi non chơi một lát, sóng biển ào lên cuốn trôi mất hết rồi nó tiếp tục làm nữa cũng bị cuốn trôi mãi như vậy. Như vậy tội nghiệp nó tốn công vô ích, sao không làm gì khác hay hơn? Đây cũng vậy, nếu chúng ta còn luân hồi bỏ thân này được lại thân khác, kiếp kiếp đời đời không ra khỏi nên Phật nói không có khổ nào lớn bằng khổ luân hồi.
(1:07:12) Cuộc sống mấy chục năm ra gì, còn thiếu, có đói cũng là tạm thời, dài thì chết, muộn ngắn thì chết sớm, tất cả cũng phải chết, không ai thoát được. Như vậy điều đáng lo nhất là làm sao ngăn cho thân này đừng tiếp tục làm việc vô ích nữa.
Chúng ta xét xem cứ mỗi lần sanh ra chết đi là làm được những gì cho người cho mình hay sinh ra lớn lên rồi già chết, đời này qua đời khác. Cứ như vậy hoài thật là vô lý. Nên Phật nói đi trong luân hồi không có khổ nào bằng. Cứu khổ chúng sanh là làm sao cho họ thoát khỏi luân hồi, đó là gốc của đạo Phật.
Điều này chỉ có Phật và Trưởng lão Thông Lạc thấy chứ chúng ta đâu thấy. Con người chỉ thấy đói và những thứ cần thiết trong cuộc sống mà thân này là tạm bợ thì những thứ phục vụ cho cuộc sống càng tạm bợ hơn. Vì vậy Phật nói, khổ từ đời này sang đời khác liên tục không biết khi nào dừng. Trong kinh đức Phật dạy rằng: “Cái khổ của thiêu đốt ở địa ngục chưa phải là khổ, cái khổ làm ngạ quỷ đói khát chưa phải là khổ, cái khổ làm trâu ngựa kéo cày kéo xe chưa phải là khổ, mà chỉ si mê không biết lối đi mới là khổ”. Cho nên đức Phật nói vô minh mê lầm lạc là khổ nhất.
Bởi vì nó dẫn mình đi trong luân hồi vô số kiếp, phá được nó không còn lầm lẫn nữa, gọi là giải thoát sanh tử. Được như vậy mới thật sự hết khổ. Đạo Phật hết sức thâm sâu, chỉ vì người ta không biết nên mới phê phán thế này thế nọ. Vì đạo Phật đưa chúng ta đi qua cái tầm thường của con người nên con người khó tin, khó nhận.
Đức Phật thấy tội nên Ngài thường chỉ dạy cho chúng ta đến chỗ đó mới là cứu cánh, không phải tu chút ít được phước sanh cõi lành mà cho là đủ. Sợi dây xích dù bằng vàng, nhốt chúng ta trong nhà lầu làm bằng vàng, nhưng chúng ta vẫn thấy khổ như thường. Bởi vì còn dây xích là còn khổ, dù xích vàng hay sắt gì cũng đều là khổ hết, khi nào thoát khỏi dây xích mới là hết khổ.
(1:09:33) Giải thoát là như vậy. Cho nên đạo Phật không khuyên chúng ta tu để đời sau được sanh lên cõi Trời, mà phải giải thoát sanh tử, đó mới là gốc, cội gốc của đạo Phật. Thế nên chúng ta phải biết những gì đức Phật dạy là những phương thuốc trị bệnh cho chúng sanh hết khổ, từ bị tham, bị sân, bị si, bị v.v. những niệm đó xả là bớt khổ. Nếu xả được hết sạch thì sẽ đi đến chỗ giải thoát sanh tử. Những phương pháp Phật dạy gọi là đạo đế. Dứt được mầm đau khổ là diệt đế, là giải phóng sanh tử.
Như vậy học Phật tu tập là ứng dụng phương pháp Phật dạy vào cuộc sống của mình liền. Hiểu được vậy mới thấy giá trị đạo Phật chân thật. Người tu mà không hiểu, vô tình làm cho đạo Phật thành mê tín thần quyền. Lỗi đó tại ai? Cũng tại một phần ở nhà chùa. Giáo lý Phật dạy quá rõ ràng mà người tu không áp dụng không đem ra dạy. Lại dạy những chuyện đâu đâu. Rốt cuộc thì đạo Phật có khác gì ngoại đạo. Những gì ưu, những gì quý của đạo Phật cũng không biết, cứ nói đạo nào cũng dạy ăn hiền ở lành thôi mà không biết gốc của đạo Phật là thế nào. Vì không thấy được điều đó nên bữa nay theo đạo Phật mai mốt theo đạo khác, miễn đạo nào cũng ăn hiền ở lành là được. Như vậy là không hiểu đạo Phật.
Hôm nay nhân viết bài Đức Xả Tâm, tôi nêu lên những phương thuốc thần diệu để xả tâm rất thực tế và cụ thể, mong Quý các bạn suy ngẫm và ứng dụng tu học cho có kết quả.
(1:11:23) Năm, sử dụng Đức Xả Tâm để đối trị tâm cố chấp của chúng sanh. Đạo Phật là đạo siêu xuất và mục đích của đạo Phật là xả tâm. Các bạn biết ngược với xả là gì không? Là cố chấp nắm chặt, “cố” là chặt, “chấp” là nắm. Cố chấp là nắm chặt, khác với nắm chặt là buông xả. Mới nghe đơn giản quá nhưng xét kỹ các bạn sẽ thấy tất cả chúng ta sống trên thế gian này, ai cũng than buồn, than khổ, góp phần vào cố chấp thôi chứ không có gì khác.
Bây giờ muốn hết buồn hết khổ thì chúng ta phải làm sao? Phải xả phải buông bỏ, buông bỏ thì hết khổ. Như vậy quá đơn giản quá tầm thường, chỉ cần các bạn thực hiện được những điều chúng tôi nhắc sẽ hết khổ ngay trong cuộc sống hiện tại này. Lâu nay chúng ta cố chấp những gì mà bây giờ phải buông xả?
Trước hết là chúng ta cố chấp những gì phải trái. Thường thường ở thế gian ai cũng nghĩ điều mình nói mình làm là phải nhưng người khác nói ngược lại, làm ngược lại thì họ cho là người khác quấy. Mình phải, họ quấy mình, họ không chịu nghe không chịu làm theo mình nên mình giận. Nhất là trong gia đình cha mẹ thấy điều đó phải mà bảo con cháu không chịu làm theo thì nhất định là giận. Mà giận là vui hay buồn? Giận là buồn, buồn là khổ.
Có một người Phật tử nói với tôi thế này: “Con cháu của con bây giờ khó dạy quá. Tôi hỏi: “Sao đạo hữu nói khó dạy?”. Thưa cô mình là cha nó, mình thấy hớt tóc ngắn dễ chịu mát mẻ bây giờ nó để tóc tới cổ mà rầy nó không chịu nghe!
(1:13:22) Nó còn nói: “Bây giờ thanh niên ai cũng để tóc dài mà ba bảo hớt ngắn giống ông già quá sao con làm được. Chúng nó còn nhỏ, 19, 20 tuổi mà đeo kính trắng, mình rầy nó: “Bộ mày mù sao mà đeo kính”. Nó nói: “Ba không thấy sao? Người trí thức họ đeo kính trắng. Con học lớp 12 rồi, con trí thức rồi, con đeo kính trắng có sao đâu”. Đó là ông than con cháu ngày nay dạy không được, các bạn thấy thế nào?
Bởi vì thường lúc nào chúng ta cũng có cái nhìn theo quan niệm của mình. Quan niệm của mình như vậy là phải, con cháu không chịu nghe theo thì mình giận. Cho đó là quấy, là con ngỗ nghịch, con bất hiếu. Và khi đã như vậy rồi thì gia đình còn đầm ấm không? Còn vui không?
Tôi mới giải thích cho Phật tử đó nghe: "Tôi nhớ ở lứa tuổi ông nội tôi ngày xưa để tóc bới có một củ tỏi ở phía sau. Tới chừng lớp của cha tôi lớn lên thì cắt tóc, ông nội tôi không vui, ông nói: “Bọn nhỏ văn minh quá không có theo ông bà”. Ông nội tôi dẫn sách nho nói:” Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã”. Nghĩa là râu tóc da thịt này là nhận nơi cha mẹ, gìn giữ nó đừng cho thương tổn một là cái hiếu đầu. Bây giờ mình cạo nó là bất hiếu rồi. Như vậy ông già nhìn lại mình hớt tóc thì ông già buồn, còn mình nhìn lại ông già thì thấy ông già lạc hậu, phải không?
(1:15:05) Thế thì ai đúng? Nếu bên cứ cố chấp ông già nghĩ ông già đúng, người con nghĩ người con đúng. Người con nghĩ người con đúng thì gia đình có bình an không? Chắc là bất an. Chúng ta phải hiểu thời xưa họ theo Nho giáo thì để râu để tóc là phải, nhưng thời sau này khác hơn vì nước mình lệ thuộc Pháp, người Pháp đi làm việc hớt tóc ngắn cho sạch sẽ, mà mình cứ bảo như ông già để tóc, vậy thì lạc hậu mất rồi. Ở lứa tuổi đứa con của mình ai chấp nhận như thế, cho nên người cha phải thông cảm hoàn cảnh của con. Người con phải hiểu hoàn cảnh của cha.
Hai bên thông cảm nhau đừng cố chấp thì bớt khổ. Nếu cố chấp là nhất định khổ. Cha bất bình con, con bất mãn cha. Cứ như vậy phân ra chuyện rối rắm trong gia đình. Rồi đến thời này, mấy đứa nhỏ để tóc dài, có khi tới cổ thì mình không chấp nhận, mình để tóc ngắn mát mẻ còn nó để tóc dài lù xù nhưng nó lại thấy đẹp.
Nếu đem cái nhìn của người cha mà trách đứa con thì đứa con cũng nhìn lại người cha bằng cặp mắt lạc hậu. Bây giờ phải xử làm sao, thôi ba muốn mát mẻ, ba hớt ngắn, con thích để dài cho đẹp thì con cứ để dài. Chuyện tóc tai mỗi người sở thích riêng, bắt nó giống mình sao được. Các bạn nên nhớ một lứa tuổi là qua một thế hệ khác nhau, cũng giống nhau, không giống nhau được. Không giống mà mình đem trí của mình, cái phải mình áp đặt cho nó thì nó không chịu, nó sẽ phản ứng. Mà không chịu thì sanh ra giận hờn, buồn trách, khổ sở.
(1:16:52) Vậy thì muốn hết khổ thì đừng cố chấp, phải buông xả, buông nghĩa là xả. Quan niệm của con thì con làm, quan niệm của ba thì ba giữ. Phần ai nấy giữ. Người này đừng áp đặt người kia. Như thế chúng ta rất là thoải mái, nhẹ nhàng. Còn nếu mình cố chấp thì sống bực hoài, lúc nào cũng bất như ý. Như nó thích mang kính trắng, thì để nó mang, mình không thích thì thôi, chứ mình không thích mà bắt nó theo mình sao được. Đó là quan niệm của mỗi người, miễn làm sao con biết kính trọng thương cha, cha thương con là đủ.
Tình thương mới là quan trọng. Còn những cái bên ngoài đâu có quan trọng, vậy mà nhiều người vì cố chấp cái hình thức nên bên ngoài làm cho mất hết tình nghĩa trong gia đình khiến cha con phiền muộn, vợ chồng không vui với nhau, đó là tại cố chấp.
Các bạn nghĩ xả bỏ, đừng cố chấp có bớt khổ không? Còn cố chấp như câu chuyện tôi vừa kể khổ không? Lúc nào cũng buồn bực, vì vậy cha mẹ nên thông cảm với con, con thông cảm với cha mẹ. Mà muốn được thông cảm thì hai bên đều xả, xả hết phải của mình thì thông cảm. Ngược lại nếu không chịu xả tự nhiên lại khổ, đó là nói về lứa tuổi giữa người lớn và người trẻ. Còn nếu vợ chồng mà cố chấp thì sao? Có khổ không? Như bên phái nữ lâu nay quen rồi, nào là lọ tương, hũ tiêu, hũ ớt v.v. và v.v. Những cái nhỏ họ coi chừng từng chút để nấu nướng. Còn người đàn ông đâu có để ý đến những thứ đó mà họ nghĩ những chuyện xã giao bên ngoài, người này người nọ.
Cho nên người chồng vì xã giao bạn bè thành ra chi phí hơi rộng. Người phụ nữ chỉ lo chi tiết nhỏ trong nhà nên trách nhiệm thấy chồng sài lớn một chút thì càm ràm. Còn chồng thấy vợ keo kiệt, nhỏ nhút quá cũng không bằng lòng. Như vậy vợ trách chồng là lãng phí. Chồng chê vợ keo kiệt, đã thế thì gia đình có vui không? Không bên nào bằng lòng bên nào hết. Vì ai cũng nghĩ mình đúng.
(1:29:10) Như vậy, nếu người vợ bắt người chồng phải theo ý mình. Ngược lại người chồng bắt vợ phải theo ý của mình thì gia đình đó nhất định cãi lộn hoài. Nếu hai bên chồng và vợ cảm thông nhau, người chồng nghĩ rằng cô ấy lo việc bếp núp, cho nên quen cái nhỏ nhặt hũ tương, hũ ớt thành ra sài lớn cô không đồng ý cũng phải. Còn vợ thông cảm cho chồng, bởi vì anh ấy làm bên ngoài, giao thiệp kẻ này người nọ thì phải rộng rãi một chút người ta mới vui. Nếu bắt chồng hẹp hòi quá thì bạn bè kia không chơi với mình như vậy là tội nghiệp. Hai bên thông cảm thì gia đình sống sẽ vui, không chống chọi nhau. Đó là tôi nói những việc nhỏ thôi, còn những việc lớn khác nữa.
Các bạn nghiệm xét rồi thông cảm hiểu biết nhau, đừng cố chấp, cố chấp thì khổ. Như vậy là xả bỏ, là tu, còn cố chấp là chưa biết tu. Thế gian do cố chấp nên người nào cũng thấy sống trong gia đình không có hạnh phúc. Đã cố chấp thì làm sao hạnh phúc được, chồng chấp theo chồng, vợ chấp theo vợ, cha chấp theo cha, con chấp theo con, em chấp theo em, anh chấp theo anh. Thành ra không ai thông cảm ai, mà không thông cảm thì tự nhiên là phải buồn phải khổ. Bây giờ mỗi người tự xả bỏ cố chấp của mình để thông cảm với những người thân thì tự nhiên gia đình an vui, hạnh phúc đó là bước thứ nhất. Xả chấp phải, chấp quấy theo quan niệm của mình.
(1:20:48) Đến thứ hai nữa là xả oán hờn. Người thế gian luôn luôn nghĩ ai làm trái ý mình thì mình buồn, mình giận. Buồn giận nên bỏ liền hay nên giữ mãi? Có người thường hay nói tôi giận người đó hai ba chục năm không quên. Giận hai ba chục năm không quên thì nghe như khảng khái lắm. Nhưng thật ra là ngại, khổ chứ có hay gì đâu. Các bạn nghĩ trên thế gian này, xung quanh mình nào là xóm giềng thân tộc, bạn bè, đồng tu với nhau có bao giờ hoàn toàn không đụng chạm nhau đâu. Người ta nói vợ chồng như chén trong sóng, chén úp trong sóng thế nào cũng có khua. Huống là xóm giềng, thân tộc làm sao vừa ý mình hết. Mà trái ý thì mình giận, giận rồi chứa trong tâm, chứa lại cố chấp, giận một người chứa trong lòng, giận hai người cũng chứa trong lòng.
Nếu giận 100 người thì sao? Chứa cả 100 cái giận trong lòng làm sao chịu nổi. Các bạn xét khi đang vui vẻ mà bỗng nhớ tới người mình giận thì lúc đó gương mặt quạu xuống liền. Sở dĩ chúng ta ngủ không ngon là cũng tại giận đó. Khi nào nằm nhớ lại hôm qua, hôm kia ai làm trái ý mình liền nổi giận lên rồi hết ngủ, đó là chứa chấp oán hờn.
Chứa chấp là khổ. Ta đang vui vẻ, tươi mát mà chứa nỗi giận cũng như đem cục than bỏ trong tay hay trong da trong thịt mình vậy. Nếu cục than bỏ trong tay, trong da trong thịt thì sao? nóng, khó chịu. Vậy mà lòng mình chứa 100 cục than thì người này khổ nhiều hay ít. Khổ trước là khô héo và ngủ không ngon, ăn không ngon, giận quá là ăn ngon ngủ ngon (không) được.
Khổ thứ hai là giận làm cho mình nghĩ xấu. Các bạn thấy mỗi lần nổi giận lên gương mặt mình thế nào? Nổi giận lên thì toát đỏ ngầu, mặt đổi màu, đổi tóc không còn tốt đẹp nữa. Cả trăm cái giận ở trong lòng thì nó đốt tiếp mình khô héo, xấu xa.
(1:22:59) Như vậy ôm ấp cái giận mấy chục năm qua là khôn ngoan hay thiếu khôn ngoan? Bởi vậy nên người biết tu ai nói gì trái ý mình giận một chút rồi bỏ đi, xả đi. Giận làm chi ngu vậy, ôm cái giận là ngu chứ không phải khôn, tội gì ôm cho khổ. Trong nhà Phật có câu: “Tăng hận bất cách túc”. Nghĩa là người tu giận không quá một đêm. Chúng ta là phàm tăng nên tham, sân, si cũng còn. Vì vậy gặp chuyện trái ý cũng giận, nhưng giận chút thôi thì loại bỏ chứ không nên chấp chứa. Người thế gian thường chấp chứa, chứa năm này qua năm nọ. Họ tưởng như vậy là hay là khôn mà không ngờ đó là tự chuốc họa vào mình tự đeo khổ cho mình chứ không có lợi gì hết.
Vì vậy nên Phật dạy phải xả hết những cái giận hờn, chứa chấp rồi chịu khổ trong hiện tại mà còn khổ cả vị lai nữa. Trong kinh Phật dạy người khi sắp bỏ thân này qua đời khác, thì người thương và người ghét sẽ đi theo, bởi vì thương ai thì ta nhớ người đó, ghét ai cũng nhớ kẻ đó. Như chúng ta đang ngồi ôn lại trong lòng thì nhớ những người mình thương và những người mình ghét nhiều nhất phải không? Ghét không phải mất, thương cũng không mất. Vì vậy càng ghét sâu thì khi nhắm mắt cái nghiệp đó dẫn mình đi đến chỗ thương hoặc chỗ ghét.
Do đó khi chúng ta thọ thâm sâu, nếu ôm ấp giận ghét nhiều quá thì mình tương ưng đến những gia đình toàn những chuyện buồn phiền hờn giận không vui. Có bao giờ chúng ta muốn gặp những người mình ghét không? Không muốn, ai cũng muốn gặp người mình thương. Nhưng trong lòng thù oán nhiều quá thì nó sẽ dẫn mình gặp lại những người thù oán. Như hiện tại khổ mà vị lai cũng khổ luôn. Điều này rất thiết yếu, chúng ta phải khéo đừng nuôi dưỡng oán thù trong lòng, nên tu xả hết, cái gì qua rồi không chứa chấp nữa. Hơn thua phải khuấy, điều đó không có gì quan trọng.
(1:25:09) Quan trọng ở chỗ làm sao cuộc sống mình bình an, thanh thản, tươi mát. Đó mới là điều đáng lưu tâm. Chúng ta muốn hạnh phúc, muốn được an lạc, thì nên giữ hay nên xả? Nên xả, vì vậy tôi nói tôi muốn cho hết khổ thì phải xả, đừng cố chấp. Đó là điều thứ hai.
Điều thứ ba chúng ta đừng nên cố chấp ý kiến mình là đúng, ý kiến người khác là sai, bởi vì ở thế gian này không có gì là đúng cố định mà cũng không có gì là sai cố định. Chúng ta mở miệng nói, ai cũng nói: Tôi nghĩ thế này là đúng. Nếu nói: “Tôi nghĩ như vậy là đúng”, Người thứ hai nói: “Tôi nghĩ như thế khác mới đúng”. Thì hai cái đúng đó đụng nhau. Mình đúng theo cái nghĩ của mình, người khác đúng theo cái nghĩ của họ. Ai cũng đúng hết thì cãi lộn hay huề? Thế gian không ai chịu thua ai.
Còn trong đạo cũng thế, không ai chịu thua ai, còn chấp. Trong đạo còn chấp hơn cả thế gian nữa. Mình đúng thì người khác sai, mà người khác đúng thì mình sai. Cho nên khi người ta nghĩ khác với mình, mà họ cho rằng họ đúng thì mình dựng lên rồi. Rồi người kia cũng nổi tức bực vậy. Hai cái nổi tức sẽ đi đến khẩu chiến. Khẩu chiến không xong thì tới thân chiến. Các bạn thấy những người cãi nhau, đánh nhau khi được hỏi: “Tại sao các vị đánh nhau?”. Họ nói: “Tôi nói cái này đúng mà nó cứ cãi hoài”. Có khi nào hai người cãi lộn mà chúng ta hỏi “tại sao”, họ nói tại tôi sai đâu, nhất định là đúng. Hai cái đúng không giống nhau thì nhất định cãi lộn, cãi lộn không xong thì mới đánh lộn. Như vậy thì khổ thê lương, không bao giờ vui được.
(1:27:00) Những điều này xảy ra rất nhiều, gia đình vợ chồng, mỗi người thấy một lối, ai cũng cho là đúng thì gia đình đó cãi lộn hoài. Trong cả hội nhóm này thấy thế này là đúng, nhóm kia thấy thế khác là đúng thì cũng gây ra cuộc đấu chiến.
Cả trên thế gian đều như vậy. Nếu cố chấp cái việc của mình đúng, cái việc của người khác sai là gốc của đấu tranh, của tiêu diệt nhau.
Cho nên chúng ta đừng có cố chấp. Cái đúng này là đúng của tôi, cái đúng kia là đúng của anh. Mỗi phần đúng phần của mình. Mỗi người giữ một phần của mình, cãi nhau làm chi. Vậy là yên. Xả hết cố chấp, đừng bắt người khác phải nghĩ, phải thấy như mình mới đúng. Đó là đặc điểm đặc biệt của đạo Phật. Trong đạo Phật có câu: “Phật hoá hữu duyên nhân”, tức Phật giáo hoá người có duyên với Ngài mà thôi.
Ai có duyên thì đến, đức Phật không nói đạo Phật là đúng, đạo khác là sai, theo đạo nào cũng tốt, mình thích đạo Phật thì theo đạo Phật, thích hợp với tâm tư nguyện vọng của mình nên mình theo. Người khác không thích thì thôi.
Chúng ta không nên nói, theo đạo Phật chết được về Cực Lạc, còn theo đạo khác chết nhất định đọa địa ngục. Không nên như vậy. Trong kinh Phật là các bộ A hàm Phật thường nói: “Người tu theo đạo Phật làm lành, tu Thập Thiện được phước sanh vào cõi an lành. Người không tu theo đạo Phật mà làm Mười Điều Lành cũng được tái sanh cõi thiện. Không phải là cõi thiện chỉ dành cho người tu theo đạo Phật”.
Bởi vậy người không tu theo đạo Phật mà làm lành làm tốt, họ vẫn có phước. Mình tu theo đạo Phật mà mình làm xấu làm ác thì mình cũng bị tội như thường. Chúng ta mới thấy rằng chủ trương của đức Phật rất rõ ràng, rất thấu đáo. Phật không bắt ai phải theo mình, dù biết rằng làm như vậy là tốt, là có lợi. Nếu người không thích thì thôi, không ép buộc.
(1:29:00) Chúng ta học Phật phải thật tâm, cởi mở xả bỏ những cố chấp riêng tư, dù chấp tôn giáo mình cũng là kẹt nữa. Những gì chúng ta thấy đều do Phật dạy, mình biết mình thôi. Ai thấy hợp thì tu theo, còn thấy không hợp thì thôi, ta chỉ cười chứ đừng giận. Đạo mình quý trọng mà nghe ai nói ngược lại mình nổi khùng mình lên thì chưa gọi là hiểu đạo. Không cố chấp thì cuộc đời an vui hạnh phúc, sống với mọi người rất hòa nhã.
Điều thứ tư là Phật dạy xả, đừng chấp thân của mình nữa. Các bạn thấy dễ hay khó? Xả mấy điểm này thì còn khả dĩ, xả chấp thân mình thì hơi khó. Xin hỏi các bạn trong tất cả cái sợ của mình, giờ cái sợ nào là số một. Sợ chết là số một. Tại sao mình sợ chết? Vì cố giữ thân, cố chấp thân nên nghe nói mất đi là hoảng sợ. Do đó khi cái chết đến mình khổ vô cùng. Chúng ta xét kỹ thân của mình, ai cũng muốn cho nó được tròn một trăm năm. Hồi xưa thời vua Chúa còn tham hơn nữa. Hàng quần thần chúc vua Chúa vạn tuế, vạn tuế tức là muôn năm. Chúc muôn năm mà có ông vua nào sống được muôn năm đâu. Mấy ông vua còn chết sớm hơn ấy. Như vậy để thấy lòng ham sống của con người quá lớn.
Bởi tham sống cho nên chết là cái khổ nhất, nếu người không tham sống thì chết có khổ không? Đâu có khổ, vì họ đâu có sợ. Nên các bạn cố chấp, ham muốn để nó lâu dài mà lỡ nó bại hoại thì đau khổ vô cùng. Thân mình đâu có nguyên vẹn từ thuỷ chí chung mà nó đổi thay từng tháng, từng ngày. Như vậy muốn nó còn hoài khoảnh khắc nào, mình nắm cục nước đá trong tay mà muốn nó đừng tan.
Thân này cũng vậy, luôn biến chuyển từng phút giây, đó là nói bình thường, còn nói theo khoa học thì nó sinh diệt từng tế bào. Lúc nào, lúc nào cũng sinh sinh diệt diệt, không ngừng. Sinh diệt luôn luôn mà bảo nó còn hoài làm sao được.
Chấp như vậy có phải là ảo tưởng không? Ảo tưởng là sai lầm mà chúng ta cứ chấp giữ cho nên khổ vô cùng. Vậy mà trăm người như một, ai cũng muốn giữ thân lâu dài, nhiều khi 70, 80 tuổi vẫn muốn sống hoài, không muốn chết. Muốn giữ hoài mà có giữ được đâu, giữ không được thì khổ hay vui? Người lớn tuổi nào cũng thở dài than vắn: Khổ quá, già yếu bệnh hoạn khổ quá. Thật ra già yếu bệnh hoạn có khổ không? Có gì đâu mà khổ. Nó là như vậy.
(1:31:58) Hết thời ấu niên đến thời tráng niên. Hết thời tráng niên đến thời trung niên. Hết thời trung niên đến thời lão niên. Cứ như thế là đủ rồi. Nên khi trẻ mình vui với tuổi trẻ, lúc già mình vui với tuổi già. Mai mốt chết thì cười với cái chết sướng không? Chứ ngồi đó mà than ai cứu mình được. Không ai cứu được thì than hoài làm chi cho khổ vậy, cứ cười vui. Ừ già ốm nếu đi hai chân được không vững thì thêm chân thứ ba nữa, cứ như vậy mà chống gậy có gì đâu phải buồn. Xả được cố chấp thì vui, còn nếu giữ thì khổ. Lẽ thật là như vậy.
Con người sợ chết nhưng có giữ cho khỏi chết được không? Nếu giữ được thì cũng như sợ. Giữ không được thì cứ cười vui rồi cho rồi. Các bạn nghĩ nếu lát nữa chết chúng ta sẽ có cái gì vui? Hiện tại mình biết hết cách trên thế gian rồi, biết cuộc sống này rồi. Người ta nói đi du lịch vui chơi đó đây, làng xóm ở chỗ mình chưa biết, còn những chỗ nào biết rồi thì chán lắm. Chúng ta ở trên thế gian mấy chục năm, chán quá rồi, bây giờ đi tới chỗ khác chơi cho vui thì sợ gì. Khi sắp chết mình tự nghĩ ta biết thêm một chỗ mới nữa. Lại là vui chứ không sợ. Chúng ta sống vui với cái sống, chết cũng vui với cái chết. Như vậy là an vui tự tại.
Người không sợ chết thì chết không phải là khổ. Sở dĩ khổ là vì người ta chấp chặt phải sống. Sống chừng nào cũng được, sống hoài, chấp chặt vậy cho nên lỡ ai coi tuổi hoặc bắt mạch nói bệnh sắp chết liền quên ăn, quên ngủ. Nếu hiểu về lẽ thật thì chết là vui thôi. “Ừ tôi ở đây mấy chục năm chán rồi đi chỗ khác chơi cho vui”. Đó nghĩ vậy thì cứ cười mà đi, có tự tại không? Bạn à, nếu buông xả cố chấp thì chúng ta an vui, còn bám chặt giữ mãi thì chúng ta đau khổ.
(1:34:09) Cuộc đời là một dòng biến chuyển từ ngoại vật cho tới con người. Nó biến chuyển mà chúng ta cố giữ thì có phải là si mê không? Cho nên Phật nói: “Người trí biết được vô thường biến chuyển nên không khổ. Còn người ngu, đối với vô thường biến chuyển mà muốn còn nguyên vẹn nên khổ”. Bản thân mình nó phải biến hoại, phải mất. Phong ba, chúng ta biết rõ rồi cười với nó, không sợ là chúng ta khéo tu. Tu là như vậy chứ không phải vừa mới bệnh liền chạy tới cầu Phật cho con sống được năm mười năm.
Phật tử bệnh tới chùa nhờ quý sư Thầy cầu an. Quý sư Thầy cầu cho Phật tử an, còn quý sư Thầy không an thì cầu ai? Nếu tất cả người bệnh cầu đều bình an, thì không ai chết hết. Nhưng thật ra đâu có chuyện đó. Kì này cầu an là tại họ chưa chết, kì sau tới lúc chết thì cầu gì cũng chết thôi, cầu an cũng không khỏi. Như vậy để thấy chúng ta tu là phải nhận ra lẽ thật của cuộc đời. Thấy rõ được lẽ thật của bản thân mình, đừng lầm lẫn với cái an vui. Khỏi phải nhờ ai cầu gì hết. Cũng khỏi cần coi tướng số làm chi. Cuộc đời dài như vậy, không có gì phải lo. 30 tuổi chết cũng được, 40 tuổi chết cũng được, 50, 60 tuổi, 70, 80 tuổi chết cũng được. Chết cũng tốt, không sao hết.
Tôi thường hay nói: Ai rồi cũng chết một lần, chứ có ai chết hoài đâu phải không? Thì thôi lúc nào tới thì đi một lần chứ đâu có đi hoài mà sợ. Phật dạy khi bỏ thân này, muốn có thân khác đẹp hơn thì phải tạo duyên tốt. Khi giữ được năm giới trọn vẹn thì đời sau trở lại làm người đủ năm điều kiện tốt:
Không sát sanh thì tuổi thọ dài.
Không tổn phước thì có nhiều của.
Không tà dâm thì đẹp đẽ trang nghiêm.
Không nói dối thì ngôn ngữ được lưu loát.
Không uống rượu xì ke ma tuý thì trí tuệ thông minh.
Nếu thiếu một trong năm giới thì đời sau bất hạnh một phần.
(1:36:23) Ai muốn đời sau được thân tốt đẹp, sanh thân người, được tôn trọng, thiện. Như vậy chết không đáng sợ mà chỉ sợ mình không chuẩn bị được khi mất thân này. Nếu lúc ngã ra chết, không làm điều lành, không tạo phước đức thì chừng đó khổ hơn nữa. Cho nên biết tu thì trong cuộc sống hiện tại chúng ta được an vui, thanh thản vô sự. Khi nó mất chúng ta đã chuẩn bị cho đời sau được tốt đẹp hơn. Nên chúng ta càng vui, không có gì phải buồn sợ. Cũng như mình đi chiếc xe cũ lâu quá nó hư mòn, cứ đẩy hoài rất chán. Bây giờ mình dùng lượng tiền bỏ xe cũ mua xe mới về đẹp hơn. Như vậy buồn hay vui? Nhưng muốn mua xe khác đẹp hơn thì phải chuẩn bị tiền. Chuẩn bị trước rồi mới bỏ xe cũ mua xe mới, chứ không chuẩn bị thì xe cũ bỏ rồi không biết làm sao mua xe mới.
Cho nên người ta biết tu là người biết lo xa, biết chuẩn bị cả những nghiệp thiện cho đời mình để khi bỏ thân này ra đi một cách thanh thản, an lạc và vô sự. Như vậy chỉ một chữ xả mà chúng được an ổn, vui tươi. Cần gì phải nhiều. Một chữ mà biết tu là cả cuộc đời sống thoải mái an vui. Ngược lại các bạn sẽ thấy mập mờ, khốn khó. Nên nó hoài bất mãn, cái hay bất mãn, cái nọ bất mãn, bất mãn vợ hay chồng, bất mãn xã hội mấy chục năm cứ nhăn nhó hoài, uổng một cuộc đời.
Cho nên mình phải vui tươi xả bỏ, có mấy mươi năm ngắn ngủi sống làm sao cho thanh thản, tạo phước lành để khi nhắm mắt được đến cõi lành. Ở đó mà buồn giận làm chi cho khổ, vậy mong các bạn nghe hiểu ứng dụng tu để tất cả chúng ta sống trên thế gian này lúc nào cũng tươi cười, không còn buồn bực, giữ tâm thanh thản, vô sự. Đến lúc nhắm mắt ra đi chúng ta cũng vui luôn. Đó là kết quả tốt đẹp của người đệ tử Phật khéo tu Đức Xả Tâm.
(1:38:40) Chuyển hoá bốn khổ đế bằng phương pháp buông xả. Trên thế giới này đầy rẫy những khổ đau. Mỗi ngày có hàng triệu người không đủ thực phẩm để nuôi thân. Phải chịu đựng những cơn đói, có hàng triệu người không đủ quần áo, nhà cửa che thân, sống chịu những cơn mưa lạnh hoặc một ngày nắng cháy da. Lại có hàng triệu người phải gánh chịu những cơn đau gây ra do bệnh tật.
Mặc dù đã có phương pháp trị liệu nhưng họ vẫn không có được một phương tiện chữa trị nào. Sự khổ đau trong việc sanh sản, cái đau của người mẹ, và hơn nữa, cái đau của người con khi được sanh ra, bị đẩy qua người mẹ, ra thế giới bên ngoài đầy những yếu tố va chạm, xây xát. Tấm thân nhuốm bệnh, già yếu và suy nhược, sự khổ đau của cái chết.
Có biết bao nhiêu người trên thế giới này đang sống bất lực trong tay của kẻ thù, trong tay những người muốn giết hại họ trong nhiều quốc gia trên thế giới. Ngay giờ phút này có những tù nhân đang bị tra tấn, đánh đập. Rồi còn sự tàn bạo của chúng sanh. Những con người có tình cảm giống như chúng ta, bất lực khi đối mặt khổ đau, họ không thể làm gì khác hơn được.
(1:40:06) Có bao nhiêu lần ta đã phải đối diện với những hoàn cảnh giống như thế, và trong tương lai sẽ còn biết bao nhiêu lần nữa, chỉ cần một chuyển động nhẹ của bánh xe nghiệp quả là ta có thể trở thành những người đó. Mang xác thân này là ta mang trên người bao cơ hội để khổ đau. Mà sẽ còn bao nhiêu lần nữa trong tương lai? Những yếu tố vật chất trong thân ta được gọi là Tứ Đại. Chúng được gọi là “đại” có nghĩa là lớn, vì năng lực tàn hoại của chúng, bốn yếu tố cấu tạo nên thân ta cũng chính là bốn yếu tố cấu tạo nên quả đất này, mặt trời các hành tinh và những tinh tú trong vũ trụ.
Chính bốn yếu tố này mà ta đang sinh diệt trong thân, chúng hoạt động theo những định luật tự nhiên cũng là nguyên nhân tạo dựng và tan rã của những thái dương hệ và các dải ngân hà. Năng lượng của chúng rất là vĩ đại, trong một thời gian ngắn ngủi chúng đã hoà hợp với nhau, sự hoà hợp tạm bợ này làm sao quên đi bản chất cằn cỗi của chúng, cho đến khi chúng biến đổi theo định luật tự nhiên, trở nên mất thăng bằng và biến chuyển tan hoại của thân thể đau khổ vật lý. Chúng ta như những đứa trẻ con vui chơi trong một đêm dài đang bị lửa cháy.
Những đứa trẻ con đang mải mê chơi đùa ham mê những thú vui tạm bợ, hoàn toàn quên đi xung quanh mình lửa đang bừng bừng thiêu đốt. Nhưng trời đất vẫn còn lòng nhân từ, đã sai sứ giả đến báo trước nguy hiểm, những khổ đau đang hiện diện trong mọi khía cạnh. Bạn có thấy trong cuộc đời này có những ông lão, bà lão 80, 90 hay 100 tuổi yếu đuối, ông ngồi dưới mái nhà, cúi xuống vịn người trên chiếc gậy chập chững bước đi lụi cụi, tuổi trẻ đã mất lâu rồi, với răng rụng tóc bạc thưa. Bạn có bao giờ suy nghĩ rằng rồi một ngày mình cũng sẽ bị tàn tạ như vậy, ngay cả chúa vua cũng không thể nào trốn tránh khỏi?”
(1:42:26) Tuy có thấy trong cuộc đời này có những người đàn ông, đàn bà bệnh hoạn đau khổ vì các chứng bệnh nan y, nằm trên những xú uế của chính mình, phải nhờ người này đỡ ngồi dậy, nhờ người kia đặt xuống giường. Bạn có bao giờ suy nghĩ rằng mình cũng rồi sẽ một ngày bị diệt hoại như vậy ngay cả Chúa vua cũng không thể nào thoát khỏi. Nhưng có bao giờ thấy trên cõi đời này thây ma của một người, một hai hoặc ba ngày sau khi chết sinh lên màu bầm tím hư thối. Bạn có bao giờ suy nghĩ rằng mình rồi cũng một ngày bị cái chết tìm đến, ngay cả Chúa vua cũng không thể nào thoát khỏi.
Chúng ta cũng sẽ thế, nếu bị chi phối bởi sự thấy cái chết không chừa bất cứ một ai. Nó là sự chấm dứt của tất cả, không ai có thể trốn tránh sự thật này. Rồi còn những nỗi đau của tâm buồn khổ, thất vọng, lo âu, hồi hộp, tức giận, căm hờn, sợ hãi, ái dục, chán nản.
Chúng ta còn phải vướng chịu trong cái bẫy sập của sanh tử luân hồi lôi kéo bởi tâm dục và si mê trong bao lâu nữa. Nỗi khổ của sự bất tận này. Mỗi sáng thức dậy với những màu sắc và mùi vị, âm thanh và cảm giác, cảm nghĩ lặp đi lặp lại vô tận. Chúng ta sống một ngày, qua một giấc ngủ rồi lại thức dậy với cùng bấy nhiêu màu sắc, mùi vị, âm thanh và ý nghĩ trở đi trở lại không dứt. Cũng giống như những đứa trẻ con mê chơi trong vô thường, chúng ta không chịu mở mắt nhìn những nỗi đau trong cuộc sống của mình.
Chúng ta đi nhốt những người già, người bệnh vào các nhà thương, viện dưỡng lão để khỏi phải chứng kiến những nỗi sầu khổ của họ. Chúng ta khổ, chúng ta đuổi những kẻ ăn mày ra khỏi đường phố của mình để ta khỏi thấy những nhọc nhằn của nghèo khó. Chúng ta không chịu, chôn những thây ma được che giấu đi cái chết. Chân lý đầu tiên của đức Phật là khổ. Dầu chúng ta có chối bỏ đến đâu đi nữa. Thân này rồi một ngày sẽ già và tự hoại. Nó rồi sẽ chết. Dầu ta có luôn chìm ngập quên lãng trong những thú vui bao nhiêu đi chăng nữa thì sự có mặt của giận hờn, rồi chết, lo âu, bối rối và căng thẳng vẫn còn tồn tại. Chúng ta bị thiêu đốt trong ngọn lửa tham sân si. Chân lý của Phật, của đau khổ. Đức Phật không ngần ngại… Sau khi chỉ cho ta thấy sự thật khổ đau, Ngài giải thích cho ta nghe về nguyên nhân của chúng.
(1:45:18) Cái gì đã trói buộc chúng ta vào vòng bánh xe khổ lụy này? Đức Phật thấy rằng sự trói buộc ấy nằm ngay trong tâm của mỗi người chúng ta. Chúng ta bị trói buộc vì lòng ái dục. Chúng ta mang theo bánh xe khổ đau và mình đang theo chân nó mà chúng ta bám theo nó cũng chỉ vì sự vô minh của mình. Có bốn sự si mê lớn là nguyên nhân chính hòng trói cột chúng ta vào bánh xe khổ đau, mối đam mê vào Thiên Đường sắc dục. Sắc dục khiến cho ta lúc nào cũng đi tìm những âm thanh và hình ảnh dễ chịu, những mùi vị yêu thích, những cảm giác luyến ái của thân thể. Chúng ta cứ mải mê đi tìm những thú vui tạm bợ, mong manh. Ta đi để trốn như thể trốn có thể giải quyết được khó khăn của mình. Như là chúng ta có thể đem đến sự chấm dứt khổ đau. Chúng ta sống đời mình trong sự mong đợi thay đổi những ngày sắp tới. Một liên hệ tình cảm kế tiếp một cái gì đó để chiếm hữu. Lúc nào cũng chờ đợi ở một cảm xúc nào đó trong tương lai ngoài tầm tay với.
Có một câu chuyện về Mulla Nasruddin, ông là một tu sĩ nổi danh của Hồi giáo. Một hôm ông đi xuống chợ và thấy một thúng ớt cây bán hạ giá. Ông mua hết cả thúng đem về nhà rồi bắt đầu ngồi ăn, những đệ tử của ông nhìn thấy ông mặt mày đỏ ké, nước mắt tuôn chảy, miệng lưỡi bị nóng bỏng, bèn kêu lên: “Thầy ơi, tại sao khổ như thế mà Thầy lại cứ vồ ăn hoài vậy”. Nasruddin lấy tay bốc lên một trái ớt bỏ vào miệng rồi đáp: “Ta hy vọng rồi sẽ có một trái ớt ngọt”.
(1:47:11) Mỗi si mê thứ hai là sự cố chấp dính mắc vào ý kiến và quan điểm của mình. Chúng ta có nhiều ý kiến về những sự việc xung quanh, biết bao nhiêu là tà kiến. Cố chấp vào quan điểm của mình là một trở ngại rất to lớn. Nó ngăn chặn không cho ta nhìn thấy chân tướng của sự thật, nó luôn là một lăng kính màu lam, sai đi sự thật qua những thành kiến cá nhân của mình.
Trưởng lão Thông Lạc khi được hỏi những học trò của Ngài những trở ngại nào lớn nhất, Ngài đáp: “Chính những quan điểm, ý niệm về mọi việc, về chính họ, về phương pháp tu tập, về giáo lý của đức Phật, đầu óc của họ lúc nào cũng đầy rẫy những ý kiến, họ cho mình là khôn khéo nên không hề lắng nghe ai nữa hết. Cũng như một cốc nước vậy, nếu cốc ấy chứa đầy nước dơ bẩn đục thì cũng chỉ là vô dụng. Chỉ khi nào đổ đi nước cũ thì ta mới có thể sử dụng đất ấy lại được. Các con hãy bỏ qua đi. Đừng bê những ý kiến của mình chừng đó mới có thể thấy đạo được”. Đó là Trưởng lão Thông Lạc nói như vậy.
Vị Thiền sư Trung Hoa Ngài Tăng Xán, có viết: “Đừng đi tìm vị trí chân lý. Hãy thôi nâng niu những ý kiến của mình”. Nếu chúng ta dẹp đi được giới si mê này, cả giáo pháp sẽ phơi bày, mọi hiện hữu sẽ có mặt. Chúng ta cần phải buông bỏ những thành kiến có sẵn rồi về bản chất của sự vật và những ước mơ của mình về chúng. Buông xả mọi cố chấp và những ý kiến đáng yêu của mình, đây chính là mối ràng buộc lớn thứ hai cản giữ chúng ta trong vòng bánh xe luân hồi, bánh xe của khổ đau.
(1:49:08) Si mê thứ ba là cố chấp vào các nghi lễ và hình thức, cho rằng việc cầm thắp một nén nhang hay đốt một ngọn nến đặt trên bàn thờ là mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ. Những phương pháp tu tập, các nghi lễ đều được thực hành với hy vọng rằng đốt một nén hương, một ngọn nến, đọc một bài kinh, một câu thần chú sẽ có khả năng làm chấm dứt được khổ đau này hay chính việc cố chấp vào những khóa tu, cố gắng trở nên đạo đức hay bất cứ hình thức tâm linh duy vật nào cũng đều là những sợi dây xích trói buộc nhau.
Sự say mê thứ tư là cũng rất kín đáo và sâu xa nhất là sự chấp ngã. Chấp có một cái ta riêng biệt cùng những sở hữu của nó. Tin tưởng rằng có thể có một chủ thể thường hằng trong thân tâm để kinh nghiệm những gì đang xảy ra. Cũng bởi vì tư tưởng này mà chúng ta đã lao đầu vào những hành động bất thiện, đủ mọi tham sân si, để dễ, cố thoả mãn cái ta này. Một cái ta mà không hề có thật. Cái chấp nghĩ này rất là sâu đậm, mọi hành động của ta đều xoay vần xung quanh nó. Càng lúc càng buộc chặt ta vào một khối khổ đau.
Chân lý thứ hai của đức Phật là nguyên nhân của khổ đau, Ngài thấy được đam mê sắc dục, cố chấp vào quan điểm và ý kiến của mình. Mê tín tin rằng những nghi lễ, hình thức bên ngoài có khả năng diệt được đau khổ, và nhất là cố chấp vào một cái tôi thường hằng, bất biến. Không một ai bắt ta phải cố chấp. Không có một người bên ngoài chúng ta giữ ta trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có mỗi sự cố chấp, biến thái trong tâm mình là có thể làm được việc đó mà thôi.
Ở châu Á, người ta có một cái bẫy dùng để bắt khỉ rất đặc biệt. Một trái dừa được khoét rỗng ở bên trong cột vào một sợi dây hay là cắm vào một cây cột đóng trên mặt đất. Phía dưới trái dừa, người ta đục một lỗ nhỏ và bỏ vào phía trong một xíu đồ ăn có chất ngọt, cái lỗ ấy được cắt gọt vừa đủ để cho con khỉ có thể đút tay vào nếu bàn tay nó mở. Nhưng nếu nó nắm tay lại bàn tay sẽ không thể nào lọt qua.
(1:51:35) Con khỉ khi đánh (hơi) được mùi ngọt sẽ tìm tới, nó sẽ đút tay vào để bốc thức ăn rồi không lấy tay ra được. Bàn tay nắm chặt sẽ không có cơ hội, bàn tay nắm chặt, không thể giúp ra khỏi lỗ hổng ấy. Khi người thợ đang đến con khỉ sẽ trở nên cuống toáng, nhưng không cách nào chạy đi đâu được. Nhưng không ai bắt giữ nó ở đó hết, ngoại trừ lòng tham dục của chính nó. Muốn thoát ly ra, muốn thoát ly nó chỉ cần giãn dụng mở rộng bàn tay ra. Nhưng vì lòng tham dục quá nặng nên hiếm khi có một con khỉ nào có thể thoát ra được. Chính lòng tham dục còn quyến luyến trong tâm đã giữ chúng ta trong bẫy sanh tử này. Chính chúng ta chỉ cần mở bàn tay mình ra, buông xả những cố chấp, những ham muốn là có thể bước đi trong tự do sanh tử.
Chân lý thứ ba của đức Phật là sự chấm dứt những khổ đau. Niết Bàn là một trạng thái thoát ra ngoài tiến trình thân tâm, không còn bị chi phối ảnh hưởng bởi bản chất khổ đau của chúng. Tự tại, an lạc, thanh tịnh, tươi mát, buông xả như là buông bỏ xuống một gánh nặng trên vai. Niết Bàn có khi gọi là thứ nhất là Niết Bàn nhất thời tức là sự thanh thản, vô sự của những tâm thức không bị chi phối bởi tham sân và si trong từng giây từng phút. Mỗi giây phút không bị ảnh hưởng bởi những sự bất tiện, mà một giây phút cũng thanh thản, an lạc. Còn gọi Niết Bàn thứ nhì là một trạng thái thoát ra ngoài mọi tiến trình, được chấm dứt hoàn toàn được khổ đau. Chấm dứt hẳn đi ngọn lửa đang thiêu đốt.
(1:53:18) Ví dụ như có những người đang sống trong những vùng sa mạc khô khan cằn khô, nước thiếu, thực phẩm không có đủ và không có gì để bảo vệ họ khỏi ánh nắng thiêu đốt của mặt trời. Nhưng những người ấy đã quen sống trong hoàn cảnh ấy từ thuở nhỏ, cha ông của họ cũng đều như vậy. Nên họ cho đó là tự nhiên và lấy đó làm hài lòng. Cho đến một ngày kia có một người trong bọn họ đi đến một nơi có thời tiết mát mẻ, thực phẩm đầy đủ. Đến chừng ấy anh ta mới hết bước đến điều kiện và hoàn cảnh bắt buộc. Cực khổ anh ta đã từng chịu đựng so với sự an lạc, tươi mát và thinh lặng của Niết Bàn. Thì những tiến trình vô tận của thân tâm, của sanh diệt không ngừng là một gánh nặng to lớn, một khổ đau vĩ đại. Chân lý thứ ba là sự an lạc mà đức Phật cũng nói rằng trên đời này không còn gì là thắm thiết hơn. Đức Phật cũng đã chỉ cho chúng ta con đường để đi tiếp sự an lạc này. Đây không phải là một giáo lý bí mật chỉ dành cho một số người.
Chân lý thứ tư là Bát Chánh Đạo, một phương pháp để cởi bỏ gánh nặng của mình. Đây không phải là một con đường quá sức, nó không đòi hỏi ta phải hành hạ thân tâm mình, nó không bắt ta phải đi tìm đến một hang động để vãn đời.
Đó không phải là con đường khổ hạnh, cũng không phải là con đường của sự sa đọa trong sắc dục. Đây chính là con đường trung đạo, con đường của sự tỉnh thức có Chánh Niệm về những việc đang xảy ra trong tâm mình. Có một ý thức rõ ràng, không quyến luyến, không ghét bỏ, không nhận lầm những hiện tượng là Tôi, là ngã, giải thoát tâm mình ra khỏi những điều bất thiện trong mỗi giây phút.
(1:55:09) Sự thật về đau khổ phải được ý thức. Sự thật về nguyên nhân của khổ đau phải được chỉ rõ. Chân lý về việc chấm dứt khổ đau phải được kinh nghiệm và con đường để chấm dứt khổ đau ấy phải được bước đi bởi mỗi người trong chúng ta. Sự giác ngộ của đức Phật giải quyết được vấn đề cho Ngài chứ không giải quyết được khổ đau của chúng ta, ngoại trừ chỉ cho ta thấy con đường để đi đến, đi tới không có một công thức kì bí nào có thể đem ta ra khỏi khổ đau này. Mỗi người chúng ta phải tự thanh lọc tâm mình, bởi vì chỉ những chỉ có những ái dục trong tâm mới có khả năng trói buộc được ta mà thôi.
Ngày nào tâm ta còn bị chi phối bởi những chướng ngại trên bốn khổ đế này ta sẽ khó có thể phát triển được trí tuệ và hiểu biết. Cuộc sống của chúng ta sẽ cảm thấy rất nhiều bất an, nghi ngờ và ham muốn cho đến khi nào tâm ta buông xả mới thôi. Nhưng những trở ngại ban đầu không phải là những trở ngại cuối cùng khi ta có khả năng quán chiếu sâu hơn những chướng ngại ấy sẽ lại thoát trở lên. Như lúc đầu thì ta đã có nhiều tự tin vào những tư cách tối thiểu của mình. Nhất là khi ta đã thấy sự sanh diệt của chúng. Những tâm chướng ngại này đến rồi sẽ đi. Hiểu được tính cách vô thường của chúng, tâm ta lúc nào cũng sẽ giữ được thăng bằng, xin mãi mãi luôn duy trì sự liên tục và tinh tấn bằng Chánh Niệm của mình. Chỉ có một tâm An tịnh và mềm dẻo không suy chuyển mới có thể buông xả được bốn khổ đế này.
(1:56:50) Thưa các bạn, Bốn khổ đế này là pháp xả tâm, nhất là Đạo đế. Đạo đế là con đường duy nhất xả tâm từ phàm phu đến bậc Thánh, vì thế các bạn phải nghiên cứu, học hiểu tám lớp học này cho thấu triệt, mỗi lớp học là một chặng đường xả tâm để đi đến cứu cánh rốt ráo hoàn toàn. Nếu các bạn thờ ơ với tám lớp học này. Xem nó là những lớp học kế tiếp, tu mà không chấp nhận vào đường xả tâm thì e rằng sự tu tập của các bạn chỉ uổng phí công tu tập mà thôi.
Những điều Nguyên Thanh nói trên đây là pháp xả tâm đấy các bạn, các bạn có hiểu không? Đến đây Nguyên Thanh xin gửi đến quý bạn bằng đôi lời từ bi yêu thương chân thật từ trái tim của Nguyên Thanh. Mong quý bạn hiểu cho. Nguyên Thanh hiện giờ chỉ biết xả tâm vào thương yêu để thực hiện lời Phật dạy: “Sống không làm khổ mình, khổ người”. Trong thời gian tu học tại Tu viện Chơn Như, nếu Nguyên Thanh có lỗi lầm chi với quý bạn thì mong quý bạn thì mong quý bạn từ bi thương yêu xả bỏ cho.
Nhờ đó Nguyên Thanh hạnh phúc tri ân quý bạn biết bao. Sau bài học đức xả tâm này chúng ta sẽ bước vào một lớp học mới. Lớp học mới này mỗi người trong chúng ta phải tự nguyện, tự giác độc cư, độc bộ, độc hành. Đấy là lớp thực hành xả tâm rốt ráo để đạt được chân lý cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Vì thế Nguyên Thanh ước nguyện cầu mong cho quý bạn thành công trên đường tu tập, đạt được như ý nguyện để không còn, không phụ lòng mong đợi của một đức Thầy thân thương, Trưởng lão Thích Thông Lạc.
(1:58:37) Sử dụng đức xả tâm đối trị với các cảm thọ. Cảm thọ là một đề mục vô cùng quan trọng trong thiền quán, trong mỗi giây phút chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một trong ba loại cảm thọ sau đây:
Lạc thọ tức là những cảm thọ êm ái, dễ chịu.
Khổ thọ tức là cảm thọ có tính cách đau đớn, khó chịu.
Bất lạc, bất khổ gọi là trung tính thọ, tức là những cảm thọ không dễ chịu cũng không khó chịu.
Chính những tính chất êm ái và dễ chịu của lạc thọ khiến ta bị lôi cuốn, ham mê. Và ngược lại, ta cũng xua đuổi và trốn tránh những khổ thọ trong cuộc sống hằng ngày. Vì tính chất khó chịu đau đớn của chúng. Nhưng khi ta có Chánh Niệm về cảm thọ của mình, ta sẽ có khả năng nhận diện mọi cảm thọ với nội tâm công bình và không phân biệt.
Cảm thọ chi phối ta mạnh mẽ nhất là những cảm giác của thân thể. Chúng ta ai cũng có thể dễ dàng kinh nghiệm được những cảm giác dễ chịu hoặc đau đớn đang có mặt trong tâm mình. Chúng đến rõ ràng đến những cảm giác nào trong những phương pháp thiền quán về cảm thọ. Kinh nghiệm những cảm giác dễ chịu nhẹ nhàng, êm dịu mà không bị lôi cuốn. Mà cũng không bị ghét bỏ những cảm giác khó chịu nặng nề hay đau đớn.
(2:00:08) Hãy tự nhiên quan sát người xem mọi cảm giác đang có mặt trong thân: Nóng lạnh, ngứa ngáy, êm dịu nặng nề, đến rồi đi mà không phê phán, thương ghét hay nhận nó là được. Khi bắt đầu ngồi thiền. Bạn hãy khởi sự bằng cách chú ý đến hơi thở của mình. Như sự ra vô ngắn hoặc dài của hơi thở. Rồi khi có bất cứ cảm giác nào nổi lên trong thân hãy chú ý đến nó, ý thức được hoàn toàn được sự có mặt của nó.
Điều quan trọng là phải giữ một cái đầu tự nhiên thoải mái, khi quan sát những cảm giác. Nhất là những cảm giác đau đớn khó chịu. Hãy tập trung vào hơi thở để xả cảm giác đau đớn ấy. Nếu bạn tập trung quyết liệt vào hơi thở, tác ý liên tục thì các cảm thọ đau đớn sẽ giảm rất nhanh. Thân và tâm ta lúc nào cũng có phương hướng căng thẳng, khẩn trương khi đối diện với những thọ khổ.
Đó là kết quả của những thái độ ghét bỏ tránh né. Lâu ngày dần dần tạo nên một sự thiếu quân bình trong tâm. Bạn hãy thử tự nhiên. Nhìn cái đau của mình mà quan sát những thay đổi uyển chuyển của nó. Một khi tâm của mình được yên tịnh xuống nhẹ nhàng và có Chánh Niệm.
Ta có thể kinh nghiệm được rằng cái đau không phải là đồ cố cứng nhắc. Nó biến tướng thay đổi cung nghiệp từng giây phút một. Bạn hãy ngồi với một tâm yên lặng thoải mái quan sát những diễn biến của cảm giác, đừng ghét bỏ cũng đừng ước vọng.
Đau cũng là một đề mục khá hữu hiệu trong thiền xả tâm. Bởi một cảm giác đau trong cơ thể, nếu biết sử dụng nó có khả năng đem lại cho ta một nghị lực rất mạnh. Bởi cái đau có thể giữ tâm ta ở một chỗ mà không bị lay chuyển nhiều. Nhưng bất cứ một cảm giác nào đang có mặt trong thân đều có thể trở thành một đối tượng thiền quán.
(2:02:11) Trong trường hợp nếu không có một cảm giác nào đặc biệt. Bạn có thể trở về với hơi thở, theo dõi sự ra vô, ngắn dài của hơi thở. Tự quán sát ghi nhận hơi thở ngắn, hơi thở dài. Phải có tính cách tự nhiên chứ không được máy móc, vội vàng. Hãy ghi nhận mọi việc xảy ra theo lý tác ý: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi đang hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi đang thở ra”. Hoặc: “An tịnh thân hành cái nóng, cái lạnh đau ngứa này hãy cút khỏi thân ngay đi” hoặc khi thân ta đau nhức, ta biết thân ta đau nhức, ta liền tác ý: “Thọ là vô thường, cút”, đau nhức tự nhiên biến đi mất. Hoặc là: “Hơi thở vĩnh viễn bỏ thân tứ đại”, thì nơi đó hơi thở ngưng.
Khi cảm thấy mình đang bị căng thẳng bởi cái đau có mặt trong thân, bạn hãy cẩn thận quán sát tính chất khó chịu, bản chất của cái đau, rồi tập trung vào hơi thở. Hãy giữ Chánh Niệm về cảm thọ của mình. Rồi sự an bình an lạc trong tâm tự nhiên sẽ tới. Lúc đó bạn sẽ đẩy lui các cảm thọ thân bệnh. Trong khi ngồi thiền giữ cho tâm được an tịnh, có một ảnh hưởng rất lớn đến sự an tịnh của tâm. Một phương cách để được gia tăng định lực là trước mỗi giờ ngồi thiền bạn nên nhất quyết rằng mình sẽ không thay đổi thế ngồi trong suốt một giờ đó. Những lần đầu có thể sẽ rất khó khăn nhưng nếu bạn có một nghị lực vững mạnh, bạn có thể ngồi và quan sát bất cứ chuyện gì xảy đến. Cho dù bạn có cảm thấy tâm mình trở nên bất an, bồn chồn, căng thẳng. Hay là đương đầu với cái đau, một trận chiến là khi đã quyết định một cái gì rồi, bạn hãy giữ nó cho đến cùng. Định lực và sự tinh tấn của bạn sẽ được tăng trưởng mãnh liệt. Và sau vài lần ngồi như vậy, bạn sẽ cảm thấy việc ngồi im trở nên dễ dàng hơn. Hãy giữ cho tâm bạn luôn ở trong một trạng thái bất động. Khi quán chiếu bất cứ những đối tượng nào. Được như vậy thì sẽ không có gì gọi là một chướng ngại hay khó khăn cả.
(2:04:27) Mọi đối tượng của thân hay tâm, nội hay ngoại đều đi ngang qua trong một không gian Chánh Niệm. Đừng bắt buộc tâm phải chạy theo hay là trốn tránh bất cứ một đối tượng nào: Một sự bất động của tâm ý. Khi ấy, tâm ta có thể trở nên tĩnh lặng và quân bình. Nhờ đó ta có thể nhìn thấy rất rõ ràng trong mỗi giây phút sự sanh diệt của từng hơi thở, từng cảm thọ, tư tưởng, cảm giác, âm thanh, mùi vị và hình ảnh.
Hãy có Chánh Niệm về việc này, đây là lúc để ta gia tăng nghị lực chứ không phải là lúc để giãi đãi. Hãy nghĩ lại công lao tu tập của bạn trong hai tuần vừa qua. Nhớ lại giai đoạn mới bắt đầu ngồi yên trong một tiếng đồng hồ, nó khó khăn đến đâu. Bây giờ bạn đã khai triển được một sức mạnh trong tâm, một năng lực của Định và Quán.
Giai đoạn đầu là để xây nền móng để được vượt qua những khó khăn, vô lậu. Những loại trở ngại ngăn không cho bạn ngồi yên trong một tiếng đồng hồ. Những khó khăn đó có lẽ cũng đã được ta vượt qua một phần nào đó. Tâm ta đã tĩnh lặng xuống, nó bắt đầu thẩm thấu. Bắt đầu trận chiến bằng cái niệm, tiến trình làm việc của thân tâm. Tri kiến đang trưởng thành thì biến đổi của thân tâm rất khó có thể nhận diện được. Vì nó thay đổi một cách vô tri giác trong mỗi giây mỗi phút. Những sự tu tập đang dần dần trở nên không phí. Trong thời gian còn lại chúng ta còn rất nhiều lắm, lúc này ta phải biết tận dụng năng lực để giữ tâm đừng rơi vào tình trạng mơ ngủ hôn trầm và tỉnh thức.
(2:06:07) Một lần nữa ta hãy nhất quyết duy trì sự im lặng, thinh lặng là cội nguồn của sức mạnh. Nó tạo lên một sự trong sáng, nhờ vậy mà mọi tình trạng của tâm đều có thể được hiểu bày rõ ràng. Nếu khi mỗi lần những cảm thọ của bồn chồn lười biếng của tâm ta khởi lên, ta lại mở miệng để nói thì ta sẽ mất đi một dịp để dùng Định Vô Lậu quán chiếu chúng.
Sự thinh lặng giúp cho ta ý thức được những gì đang xảy ra giữa thân và trần. Mục đích của Thiền quán không phải là để ngồi im trước sự an lạc trong một tháng trời. Nhưng là để kinh nghiệm được sự nhất như của thân và tâm. Kinh nghiệm một cách trọn vẹn mọi đau nhức, mọi cảm giác an lạc. Tất cả những mệt mỏi, buồn chán bằng những khi tâm ta đạt được một sự tập trung sắc bén. Sự thinh lặng tạo cho ta một không gian tĩnh mịch để cho ta có thể quan sát được các hiện tượng này.
Nói chuyện nhiều sẽ tạo nên một vòng xoắn ốc đi xuống, khi ta bất an ta bắt đầu nói chuyện. Sự nói chuyện sẽ khiến cho ta mất đi nghị lực và vì vậy tâm ta lại càng thêm bất an. Tinh tấn, nghị lực là tạo một không gian thêm sức mạnh cho sự tu tập. Đâu có ai có thể biết trước được, chừng nào ta mới có lại được dịp tu tập như thế này. Trong hoàn cảnh này, chúng ta đang có những điều kiện rất là đặc biệt nên đây rất là lý tưởng để ta có thể thám hiểm vào chính mình. Tìm thử coi ta thật sự là ai. Đừng lãng phí đi cơ hội quý báu này.
Một yếu tố nữa có thể giúp ta tăng Chánh Niệm là từ tốn lại, chậm lại, hành động một cách chậm rãi. Hãy coi như mỗi hành động của ta trong ngày như là một đối tượng của Thiền quán.
(2:08:02) Từ khi vừa mới thức dậy cho đến khi đi ngủ. Ghi nhận mọi việc xảy ra một cách rõ ràng và sáng suốt trong mỗi hành động: Khi tắm rửa, khi thay đồ, khi ăn uống…
Chúng ta bấy lâu nay có thói quen làm việc gì cũng phải vội vã, bổ nhào tới giây phút tương lai, lao vào một hoạt động kế tiếp. Lúc nào cũng ở trong một giai đoạn chuyển dịch nối tiếp. Hãy cố gắng an trú trong giây phút hiện tại này, không có gì đáng để cho ta phải vội vã hết. Không có một nơi chốn nào để đi đến cả.
Mục đích của chúng ta hiện nay là để vươn tới khả năng ghi nhận các cảm thọ lạc, thọ khổ, bất lạc, bất khổ đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Đừng ép buộc, đừng nỗ lực quá, hãy an trú trong giây phút này, đừng toan tính suy nghĩ một cái gì trong tương lai. Giữ tâm mình cho được thoải mái. Nhưng với một Chánh Niệm sâu sắc, tâm ta sẽ dần dà thâm nhập vào những trình độ sâu thẳm hơn. Thường thường khi chúng ta thấy một người nào đó đang vội vã, nói cũng như chạy, cứ hấp tấp trong ta, và khi cho ta thấy một người hành động khoan thai có Chánh Niệm, tự nhiên ta cũng sẽ giữ Chánh Niệm.
Hãy ý thức được giá trị và ích lợi của mình đối với những người khác. Tu tập xả tâm là một sự quân bình, tự tu trong thinh lặng và tĩnh mịch nhưng cũng vừa tạo được môi trường giúp đỡ cho những người khác khi bạn thấy giữ đúng hạnh độc cư.
(2:10:22) Khi trình độ phát triển, trong khi tâm ta có thể đi vào một trạng thái dễ chịu của thanh thản, an lạc và vô sự, bạn có thể ngồi được thật lâu trong trạng thái này. Hãy tỉnh thức đừng để Chánh Niệm của ta bị xao lãng, hãy cố gắng gia tăng Chánh Niệm để ta lúc nào cũng ý thức được những điều đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Được như vậy trí tuệ sẽ khai triển, ta sẽ kinh nghiệm được tức khắc sự sinh diệt của các cảm thọ khổ, thọ lạc, bất khổ bất lạc, để tư tưởng cảm thọ, hơi thở, những trạng thái của tâm thức.
Hãy giữ Chánh Niệm đó chính là căn bản của trí tuệ, phải lưu giữ những ý thức sáng suốt. Sau cùng chúng ta xả luôn các cảm thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc, bất khổ. Trong đoạn kinh (2:11:11) … dạy xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, nhập Tứ Thiền tức là xả các cảm thọ. Đến giai đoạn này chúng ta không thực hiện hơi thở thì làm sao các cảm thọ mất được. Trong kinh Tăng chi bộ tập 4 trang 417, 418 có dạy về tịnh chỉ hơi thở: “Với người chứng, chứng thiền thứ tư, hơi thở vô, hơi thở ra là cây gai”. Kinh Tăng Chi Bộ và kinh Tương Ưng còn dạy rõ về cách thức tịnh chỉ hơi thở để nhập Tứ Thiền. Tôi dẫn hai câu kệ trong kinh Niết Bàn thuộc kinh Trường Bộ tập 2.
Còn trong kinh Bát Thành Phật cũng có dạy về Pháp độc cư xả tâm như sau: "“Xả tâm này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố …”.
Nếu bạn chọn lấy Pháp xả tâm mà tu tập và rèn luyện tâm mình, khi Tâm xả thành tựu thì bảy năng lực giác chi xuất hiện. Lúc bây giờ các bạn muốn nhập thiền nào thì các bạn sẽ tác ý theo Trạch Pháp Giác Chi thì nhập ngay thiền nấy và thực hiện Tam Minh, không có khó khăn, không có mệt nhọc. Bởi vì xả vô lượng tâm ác thì các cả Lậu hoặc sẽ được đoạn trừ. Khi Lậu hoặc đã trừ xong thì chúng ta chứng quả A La Hán, không cần phải tu tập Pháp môn nào khác nữa.
(2:13:10) Ở đây chúng tôi xin nhắc lại, các bạn cần lưu ý: Khi muốn nhập Sơ Thiền thì chúng ta cần phải ly dục, ly ác pháp. Muốn ly dục ly ác pháp thì các bạn cần phải tịnh chỉ ngôn ngữ (lời nói), tức là sống độc cư trầm lặng một mình mà tâm không phóng dật thì mới có thể nhập được Sơ Thiền. Khi tâm không phóng dật là tâm bất động. Tâm bất động là tâm có đầy đủ bảy năng lực giác chi. Do đó, mới nhập được Sơ Thiền.
Khi muốn nhập Sơ Thiền thì chúng ta phải diệt tầm tứ. Muốn diệt tầm tứ thì chúng ta phải tịnh chỉ khẩu hành. Muốn tịnh chỉ khẩu hành, thì phải có lần lượt bảy năng lực giác chi. Nếu không có đủ bảy năng lực giác chi thì không bao giờ tịnh chỉ khẩu hành được. Và như vậy chúng ta sẽ không bao giờ nhập Nhị Thiền được. Khi muốn nhập Tam Thiền thì chúng ta phải ly các trạng thái hỷ tưởng. Ly các trạng thái hỷ tưởng là tịnh chỉ mộng tưởng có nghĩa là người nhập Tam Thiền đều thoát ra khỏi thế giới mộng tưởng. Muốn thoát ra khỏi thế giới mộng tưởng thì phải dùng bảy năng lực của Giác chi.
Nếu không có bảy năng lực Giác chi thì không bao giờ ly Hỷ được. Khi muốn nhập Tứ Thiền thì phải xả lạc, bất khổ, xả niệm thanh tịnh, tức là xả thọ, muốn xả thọ thì phải tịnh chỉ hơi thở ra, hơi thở vô. Muốn tịnh chỉ hơi thở ra, hơi thở vô thì phải có đủ có bảy năng lực của Giác chi. Nếu không có đủ bảy năng lực của Giác chi thì khó mà nhập được Tứ Thiền. Khi muốn nhập Diệt thọ tưởng định thì phải có đủ bảy năng lực Giác chi mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Nếu không có bảy năng lực Giác chi thì không bao giờ nhập Diệt Thọ Tưởng Định.
Tóm lại những loại định trên đây của Trưởng lão đã chỉ thẳng mục đích tu tập từ con người phàm phu để trở thành những bậc Thánh nhân A La Hán vô lậu. Làm chủ sự sống chết hoàn toàn, và chấm dứt luân hồi, không còn trở lui trạng thái này nữa.
(2:15:14) Áp dụng đức xả tâm vào bản thân. Bốn trạng thái vô biên mà chúng ta gọi Tứ Vô Lượng Tâm đạt đến đỉnh điểm bằng xả, trong tiếng Pali xả được gọi là “upekkhā” có nghĩa là thăng bằng, mà đặc tính của nó là nắm giữ tâm lại trước khi nó huân vào những cực đoan.
Xả là một sự tĩnh lặng bao la của tâm, một sự yên tĩnh chói ngời cho phép chúng ta hiệu nghiệm trọn vẹn với tất cả những kinh nghiệm thay đổi khác nhau mà đã tạo thành thế giới và cuộc sống của chúng ta. Khi chúng ta nhìn kỹ lại những kinh nghiệm của chúng ta. Kinh nghiệm bên trong lẫn bên ngoài chúng ta thấy rằng thay đổi là căn bản, nội tại trong toàn bộ thế giới sống này.
Khi mọi chúng ta thấy những điều thay đổi nhân duyên của những quang hợp và hơi thở của dục vọng, bên trong chúng ta cũng thấy được những nhịp sinh hóa của chính chúng ta. Mọi thứ đều di chuyển, rung động, tập theo những điều được thay đổi nhân duyên này cũng tìm thấy trong những điều của hành tinh, của những vì tinh tú, của chu kì ngày đêm mà một ngày bằng không, tất cả các chu kì của thế giới tự nhiên.
Khi chúng ta nhìn lại cuộc đời của chính mình. Chúng ta thấy những mô hình đặc biệt của sự tuôn chảy bởi di chuyển, bạn hãy tự suy nghĩ trong chốc lát xem những hoàn cảnh nào đã mang bạn đến ngồi đây, tại một nơi đặc biệt bạn đang ngồi này, hoặc những phút này. Rất nhiều những biến cố phát sinh những thay đổi khác nhau, phải dẫn đến giây phút này và hành động này.
Vào thời điểm mà chúng xảy ra một số trong những kinh nghiệm đó dường như có vẻ không may mắn. Nhưng tuy nhiên bằng một cái sức nào đó chúng ta nhận được vai trò trong con đường mà đã mang bạn đến nơi đây vào thời điểm và nơi chốn đặc biệt này.
Như vậy chúng ta thấy rằng cuộc sống không thật sự là một chuỗi những biến cố vô định và hỗn độn, đúng hơn nó giống như một hình lập thể. Nó có thể, nó có thể mẫu của nó. Bởi kinh nghiệm có một phần trong việc cấu tạo nên cái tổng thể. Chúng ta có thể lấy sự hài hoà trong một bức tranh lớn hơn. Dĩ nhiên trong kinh chúng ta khó lòng mà chào đón những giai đoạn đau khổ khó khăn như là một phần của cuộc đời chúng ta. Khó lòng cảm thấy một mối liên kết với một biến cố cay nghiệt đó. Chúng ta vẫn cảm thấy mọi việc diễn ra suôn sẻ dễ dàng may mắn.
(2:17:56) Nhưng đúng là cuộc sống của chúng ta được làm thành bởi những sự thay đổi liên tục không ngừng nghỉ. Cái mà những người theo Lão giáo gọi là hàng vạn niềm vui và hàng vạn nỗi buồn, cứ thế mà lặp đi lặp mãi. Nhưng đức Phật lại nói sung sướng và đau khổ, được mất, khen ngợi và chê trách, danh và dục liên tục khởi lên mà mất đi, vượt ra ngoài tầm điều khiển của chúng ta.
Một người bạn của tôi hướng dẫn các khóa tu thiền có lúc quen những người Châu Á giống như tôi, vái Niệm Phật trước khi bước vào Từ Đường, vào đầu những buổi ngồi thiền. Một ngày kia sau buổi ngồi thiền, anh bảo với tôi rằng, anh nhận được hai lá thư của những người học trò ở trong thiền đường với anh. Một lá thư nói, lá thư thứ nhất nói rằng: “Tôi thấy Thầy ấy lạy tượng Phật, tôi cảm thấy bị xúc phạm, đó đúng là sự mê tín thối tha, nó không có chỗ đứng tại nơi này”. Lá thư thứ hai kia viết: “Tôi thấy Thầy vái lạy tượng Phật, và tôi muốn Thầy biết rằng đó là điều làm tôi vô cùng xúc động nhất tại nơi này, nó làm cho tôi không bao giờ quên được, tôi rất biết ơn Thầy vì đã làm điều đó”.
Mọi việc đúng như vậy, chúng ta hành động hy vọng góp sức vào những ý định tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể tìm thấy trong tâm mình. Đôi khi chúng ta nhận được những lời khen, đôi khi chúng ta nhận được sự chê trách, không ai trong thế giới này chỉ trải nghiệm sự sung sướng mà không bị đau khổ. Và không ai chỉ được mà không bị mất, khi chúng ta mở rộng tâm ra để đón nhận sự thật này, chúng ta khám phá ra rằng không cần thiết phải bám víu hay che đậy điều này. Thay vì tìm ra cách điều khiển điều không bao giờ có thể điều khiển được. Chúng ta có thể tìm thấy một cảm giác an toàn trong việc có thể chấp nhận những gì đang thật sự xảy ra. Điều này dành chỗ cho sự đối mặt của cuộc sống, không phán xét và thay vì thế luôn giữ cho thăng bằng.
(2:20:09) Một cái tâm có thể đón nhận những gì đang xảy ra, cho dù đó là gì đi nữa. Sự chấp nhận này là một điều tạo sự an toàn và tự tin cho chúng ta. Khi chúng ta cảm thấy không vui hay đau đớn thì đó không phải là dấu hiệu rằng mọi thứ đã đi sai đường nghiêm trọng. Hay rằng chúng ta đã làm được điều gì đó sai bằng cách đã không thể điều khiển được hoàn cảnh. Đau khổ và sung sướng liên tục đến và đi. Dù vậy chúng ta vẫn có thể hạnh phúc, khi chúng ta để dành một chỗ đứng cho sự đối mặt của cuộc sống.
Trong khi chúng ta khám quá ra một sự tự do ngay trong quan điểm của giờ phút đau khổ. Hay chính những hoàn cảnh đau đớn trong những giờ phút đó, chúng ta nhận ra rằng chúng ta đã không thể điều khiển đến mức độ như thế nào. Chúng ta có thể buông xả. Khi chúng ta bắt đầu có thể hiểu điều này, ta đã chuyển từ một trạng thái đấu tranh để điều khiển những gì xảy ra trong cuộc đời mình sang một trạng thái tương phùng ao ước, sự thật nối kết những gì đang xảy ra. Đây là một sự thay đổi tận gốc rễ trong quan điểm về cuộc đời. Đức Phật đã nói về 6 cách mà theo đó chúng ta phải trải nghiệm thế giới 6 cánh cửa nhận thức: “Thấy, nghe, ngửi, nếm sờ rồi đi qua cánh cửa của tâm trí, bằng sự suy nghĩ cảm nhận các cảm xúc mình nhìn thấy các hình ảnh trong trí não”.
Tóm tắt nhận thức này, định nghĩa toàn bộ kinh nghiệm của chúng ta. Đức Phật nói kiếp này từng mỗi giây phút sống mà trong đó phải có một trong sáu kinh nghiệm này đều mang một sắc thái tình cảm đi theo nó. Vì vậy trong mỗi giây phút chúng ta đều trải qua sự sung sướng, đau khổ hay trung tính không sướng không khổ còn gọi là cảm thọ khổ, thọ lạc, bất khổ, bất lạc.
(2:22:03) Ví dụ chúng ta thấy một đối tượng mà trong giây phút đó chúng ta có cảm thấy yêu thích đau khổ hay trung tính, trung tính còn có nghĩa là thọ khổ, thọ lạc, bất khổ bất lạc. Hay lập tức sẽ có một phản ứng đi theo sau cảm giác đó. Khi kinh nghiệm là sự vui thích mà chúng ta không muốn nó mất, chúng ta có phương hướng bám vào nó với một sự gắn bó. Khi chúng ta không rút được kinh nghiệm thì nó gây đau khổ. Chúng ta có khuynh hướng phản ứng lại bằng một sự chán ghét, bằng sự kết tội hay xô đẩy nó đi. Bởi vì chúng ta thường lệ thuộc vào sự sung sướng hay đau khổ. Mạnh mẽ có thể được cảm giác đang tức giận hay tinh tấn. Nên khi cảm giác được sự trung tính, chúng ta có khuynh hướng phản ứng lại bằng sự buồn ngủ, ngủ gật hay rơi vào sự không chú ý.
Trong Phật giáo điều này được coi như là rơi vào ảo tưởng. Phần lớn thời gian tâm và trí chúng ta phản ứng lại hàng vạn niềm vui và hàng vạn nỗi buồn bằng cách nghiêng về phía trước rồi lại nghiêng về phía sau, lặp đi lặp lại mãi. Giữa niềm vui ngây ngất và nỗi tuyệt vọng, một chuyển động cuồng bạo đáp ứng hay chống lại cái mà chúng ta trải nghiệm, hay chúng ta phản ứng bằng cách chối bỏ dưới nhiều hình thức thờ ơ, đè nén, không chú ý, một nỗi lo sợ bị bóp nghẹt hay cảm giác bị tách rời.
(2:23:29) May mắn thay đức Phật đã vén bức màn cho chúng ta thấy vì cái đánh mất con người của mình trong những phản ứng có điều kiện này. Chúng ta có thể học cách giữ thăng bằng trong việc phản ứng lại với chúng. Giữ thăng bằng không có nghĩa là chúng ta không còn cảm xúc gì nữa. Thì không biến chúng ta thành một đống thực vật đã mất hết cảm xúc, đức Phật dạy rằng chúng ta có thể cảm thấy vui sướng một cách trọn vẹn mà không cần phải thèm muốn hay bám dính, không định nghĩa nó như là hạnh phúc sau cùng của chúng ta.
Chúng ta có thể cảm thấy được sự đau khổ tột độ mà vẫn không kết tội hay ghét bỏ nó. Và chúng ta có thể cảm nhận được những tình huống trung tính mà vẫn hiện diện với nó một cách đầy đủ để nó không chỉ là khoảnh khắc lấp đầy. Trong khi chờ đợi những điều gì đó hấp dẫn hơn sẽ xảy ra,… sự không phản ứng này là trạng thái xả chấp và nó dẫn chúng ta đến chỗ tự do trong mỗi giây phút.
Khi chúng ta thực hành ba tâm Từ bi hỷ vô lượng kia chúng ta có thể rơi vào trong tình trạng muốn sở hữu người khác và tìm cách điều khiển họ, chúng ta mong muốn giúp đỡ, mong muốn phục vụ, muốn chữa lành, muốn sung sướng tiếp tục sự may mắn của kẻ khác. Chúng ta có thể cố gắng để tạo ra một cảm giác từ bi đối với ai đó, và rồi bắt đầu trạng thái nóng mặt đối với họ. “Tại sao chưa hạnh phúc đi, trong khi tôi đang tuôn trào tâm tôi cho bạn đây. Hạnh phúc đi chứ. Hãy bắt đầu cư xử đúng đắn một chút đi nào”.
Buông xả cũng giống cách mà bố mẹ cảm thấy khi con họ trưởng thành, bố mẹ đã nuôi dưỡng, đã quan tâm rất nhiều, đã yêu thương và rồi ở một thời phút nào đó, họ buông xả họ không làm việc này với một cảm giác rút lui. Họ không vứt đứa con đã trưởng thành ra khỏi nhà, rồi nói: “Như vậy là tốt rồi, nhưng chúng ta thật sự không cần đến nhau nữa”.
(2:25:33) Buông xả có tất cả sự nồng ấm và yêu thương của ba trạng thái trước: Từ bi hỷ, nhưng buông xả cũng có sự thăng bằng, trí tuệ và hiểu biết bằng mọi việc giống như nó là lần cuối cùng chúng ta không thể kiểm soát hạnh phúc hay không hạnh phúc của người nào đó.
Khi chúng ta biết tham, sân, si là ba tâm hành căn bản, là gốc rễ những khổ đau của chúng ta, mọi hành động xấu đều được xúi giục bởi một trong ba tâm hành này. Lấy một ví dụ, tâm tham có đặc tính là bám víu vào một đối tượng. Khi tâm khởi nổi lên trong ta nó có khả năng khiến cho ta trở nên muốn chiếm hữu, gom góp, bám víu, theo đuổi vào bất cứ chuyện gì ta đang làm. Đó chỉ là tính cách tự nhiên của tâm tham. Không có từ tham, không có một cái ngã, cái tôi nào đứng phía sau hết, tất cả chỉ là kết quả của một trạng thái tâm hành đang làm việc.
Sân cũng là một tâm hành có đặc tính tự nhiên là thù ghét, chối bỏ đối tượng; lòng ghen tức, bực mình giận dữ bất an, chối bỏ là những trạng thái của tâm sân. Làm sân hận không phải thật là ta hay của ta, nó chỉ là một trạng thái tâm hành sân lên rồi diệt đi.
Si là một tâm hành có khả năng làm mờ đục nhận thức, chúng ta không thể thấy rõ được đối tượng, ta không ý thức được những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Ngược lại ta cũng có ba tâm hành có khả năng đem lại hạnh phúc là tâm xả, tâm từ và tri kiến giải thoát. Tâm xả có tính chất tự nhiên là rộng lượng, không hối tiếc, không hung dữ. Tâm từ là lòng thương yêu người khác, tình bằng hữu. Tri kiến giải thoát có khả năng nhìn rõ mọi sự vật; nó được ví như một ngọn đèn sáng trong tâm, khi bạn đi vào căn phòng tối, bạn không nhìn thấy được những vật trong tâm nên thường bị vấp ngã. Khi bật đèn lên, mọi vật sẽ trở nên sáng tỏ và phân biệt rõ ràng. Đấy là nhiệm vụ của trí tuệ, soi sáng tâm thì ta có thể nhận diệt được rõ ràng cả nội dung lẫn tiến trình của thân và tâm.
(2:27:47) Tất cả những tâm hành đều kể dầu tốt hay xấu đều có chung hai đặc tính là vô ngã và vô thường. Không có một cá nhân nào tham lam, không có một người nào sân hận, cũng không có một ai làm trí tuệ hay từ bi; chỉ có một hiện tượng không tâm thức xông lên kéo theo có một số tâm hành và làm việc theo nhiệm vụ của nó. Như vậy thì ý niệm về một cái tôi phát xuất từ đâu và tại sao chúng ta lại được chi phối bởi cái tôi trên nhiều đến thế.
Trong số những tâm hành có một tâm hành gọi là tà kiến, nhiệm vụ tà kiến là những yếu tố thay đổi không ngừng của thân và tâm này… mình. Bởi thế cho nên khi có một tâm thức nào khởi lên mà kéo theo tâm hành tà kiến này, ý niệm về một cái tôi sẽ tập trung. Nhưng cũng giống như mọi tâm hành khác, nó vô ngã và vô thường, sanh lên rồi diệt đi, một khi ta có Chánh Niệm trong giờ hiện tại, tà kiến sẽ không thể xông lên và ta có khả năng thoát ra khỏi sự trói buộc của những khái niệm về tôi, của tôi. Mỗi giây phút Chánh Niệm là một giây phút vô ngã và chân thật.
Một câu hỏi mà bao đời đặt ra trong những khóa tu học Chánh Kiến này. Như vậy thì ai là người đang giữ Chánh Niệm? Thật ra thì Chánh Niệm cũng là một tâm hành, nhiệm vụ của nó là nhận diện đối tượng và ý thức được giây phút hiện tại. Không có một cá nhân nào được Chánh Niệm hết, chỉ có sự ràng buộc của một tâm hành có nhiệm vụ nhận diện đối tượng lại không dính mắc ghét bỏ hay yêu thích. Một khi Chánh Niệm được khai triển, ta sẽ thấy rằng mọi hiện tượng đều chuyển tiếp và không có một cái tôi nào trong đó hết. Kinh nghiệm của Thiền quán sẽ giúp ta kinh nghiệm được sự, hiện tượng này, điều này hoàn toàn thoát ra ngoài văn tự sách vở. Chúng ta ai cũng đang ở trên những tiến trình phá tung những xiềng xích kìm giữ ta ở trong một hang tối si mê.
Trong sự tu tập, sẽ có những lúc bạn thấy mình hình như không có một việc gì xảy ra hết. Có chăng chỉ là những đau đớn, khó chịu, bực dọc và nghi ngờ, nhưng thật ra mỗi giây phút Chánh Niệm, mỗi giây phút tỉnh thức của bạn đang làm yếu đi sợi dây xích trói buộc. Chúng ta đang dần dần tích tụ năng lực tỉnh thức đến khi Chính Niệm và Định lực khai triển tâm ta sẽ trở nên vô cùng vững mạnh và sáng suốt.
Chỉ cần kiên nhẫn xả tâm, thật kiên nhẫn để buông xả rồi chúng ta cũng có kinh nghiệm được thế nào là tiến trình thân tâm, kinh nghiệm thoát ra ngoài mọi ái niệm, không còn bị vướng mắc vào một cái tôi nào hết. Bước ra khỏi hang tối, thanh thản, ánh sáng của tự do và an lạc.
(2:30:30) Phần kết luận
Người tu hành nhờ có trí sáng suốt, nhận biết thọ là khổ nên không nắm giữ một thứ gì, dù quý báu bao nhiêu, ngay trong sự tu hành cũng vậy. Họ không trụ trước ở các pháp, mình xả tâm là chính. Trái lại họ luôn luôn xả bỏ những điều mình đã đạt đến để tiến triển bước đường đi đến giải thoát. Nếu người tu hành cứ mãi say đắm vào quả vị mình đã chứng, thì suốt đời sẽ bị trầm một nơi đó không bao giờ có thể tiến lên để đạt thành đạo quả vô thượng bồ đề. Pháp hành xả này giúp chúng ta thành tựu sự giải thoát.
Trước tiên, trong phạm vi hành xả thấp nhất chúng ta phải tập tính khoan hòa độ lượng. Biết tha thứ những lỗi lầm người của người xung quanh. Đừng ghi vào lòng, đừng trách mê những lời nói, cử chỉ, hành động không đẹp đẽ của người khác đối với ta. Hãy nghĩ rằng đó là những điều sơ suất vì vô tình hay vụng về mà ra.
Nếu ta có bằng chứng về lòng xấu xa độc ác của người muốn hại ta đi nữa, thì cũng đừng nên tự hiểu rằng người ấy đáng thương hơn đáng trách, vì họ thiếu sáng suốt, thiếu căn lành, và sự thiếu thốn ấy sẽ đem lại cho đời họ nhiều đau khổ, khinh ghét. Nếu ta ôm ấp những nỗi bực tức oán thù ta chỉ tạo cho ta thêm nhiều đau khổ, như người bị bắn trúng mũi tên độc mà không chịu rút ra. Ta sẽ mất ăn, mất ngủ, mất thì giờ mất bình tĩnh trong việc làm ăn, tu học. Ta phải đem đặt đời ta một cách bình lặng… (2:32:10) luôn cả gia đình, xã hội trong ấy, ta đang sống. Đó là hành xả có từ tâm.
Tiến lên một tầng hành xả cao hơn ta phải tập biến dần tính thù ghét ra thành tính hoan hỷ. Thấy người khác thành công ta không ganh ghét, dù đó là kẻ đã làm cho ta đau khổ. Trái lại ta còn vui mừng với họ. Hoan hỷ tán thán sự thành công của họ, nhất là khi sự thành công ấy đến, khiến người đó thiện, hướng đến mục đích giải thoát đó là hành xả có hỷ tâm.
Tiến lên một tầng hành xả cao hơn nữa, ta cũng vẫn xả bỏ những gì ta quý báu về những vật chất hay tinh thần. Có bỏ bớt hành lý nặng nề ta mới đi xa được, mới lên cao được. Nếu ta ôm giữ một cái gì thì cái ấy làm vướng chân ta, níu ta lại.
(2:33:02) Trong đời ta thường thấy những người giàu có bao nhiêu, kết tập bao nhiêu lại bận bịu vương vấn bấy nhiêu như chim vướng phải lưới, càng gỡ càng mắc thêm. Đó là hành xả có xả tâm. Rồi quý vị tu hành cũng thế, những người chứng được quả này quả khác mà chấp chặt quả ấy, thỏa mãn với sự thành công của mình. Những người cố chấp như thế không bao giờ tiến được xa. Trên đây nhiều từ ngữ tập phải tập xả dần, xả bỏ. Con tằm sẽ biến thành bướm bay, bay lượn. Nó bay là vì nó đã rời bỏ cái kén. Dù đó là một cái kén bằng tơ vàng óng ánh ấm áp, đẹp đẽ mịn màng vô cùng.
Cùng một điểm ấy Phật dạy: “Niệm mà không dính mắc, có niệm mới là niệm. Hành mà không chấp, có hành mới là hành, nói mà không chấp, có nói mới là nói, tu mà không chấp, có tu mới là tu”. - Kinh Bốn mươi hai chương. Khi xả mà buồn rầu thì tốt hơn là đừng xả, xả không phải là một điều hy sinh thường làm cho người hi sinh phải đau khổ. Xả mà còn tiếc nuối còn than thở cho cái mà mình đã chặt bỏ đi. Xả với bộ mặt buồn rầu than khóc như kẻ đi đưa đám ma, xả như thế nào, cói ích gì.
Trong Đức Xả Tâm tự có với tâm Hỷ, phải trả hết để bản thân vui mừng như người tù khi tháo dỡ xiềng xích, ta sung sướng vui mừng vì thấy mình nhẹ nhàng, khoan khoái hơn trước. Xả là một cử chỉ tháo gỡ để được giải thoát. Cho nên ta vui mừng chứ không phải là một sự trói buộc rồi mà ta phải than khóc.
Nếu đem so sánh với đức nhẫn nhục thì đức xả tâm còn cao hơn một bậc. Đức nhẫn nhục làm cho ta không thoát cơn nóng giận bực tức, làm cho ta có sức chịu đựng những khổ đau, đau xót ở đời, nó cản ngăn cái ác xấu khi không thoát ra. Còn Đức Xả Tâm làm cho lòng ta nhẹ nhàng thư thái, thoát ra cái vui hồn nhiên trong sáng.
(2:35:00) Đức nhẫn nhục như người đang gánh một gánh nặng, phải luôn luôn cố gắng ly cho đến đích. Đức Xả Tâm như người đã trút được gánh nặng thân xác nhẹ nhàng, tâm hồn khoan khoái vui vẻ, không bận tâm về một việc gì nữa. Đức nhẫn nhục như người vượt qua nhưng luôn luôn phải đề phòng lao tâm khổ tứ để cho nó khỏi phá phách.
Đức Xả Tâm như người cưỡi ngựa hay, nay đã thuần có thể thảnh thơi ngao du đây đó mà không cần chú ý đến con vật mình đang cưỡi. Do đó người có Đức Xả Tâm là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền hờn giận không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế tâm hồn mới thư thái vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng thanh tịnh được. Vậy chúng ta hãy cố gắng tu hạnh Đức Xả Tâm này tức là giữ tánh xả tâm đức Phật, mà ta đã sẵn có ở trạng thái tiềm tàng trong ta.
Ngày 02 tháng 02 năm 2006.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Con xin hết bài.
(2:36:02) Trưởng lão: Hết. Hôm nay mấy con nghe cái bài Tâm Xả của Nguyên Thanh. Mong rằng cái lớp học chúng ta sắp tới là Chánh Tư Duy, mấy con sẽ dùng cái Chánh Tư Duy đó mà cố gắng xả tâm cho tới rốt ráo. Thầy mong được cái điều đó lắm. Để rồi mấy con sẽ chứng đạo, ở trên Đạo giải thoát. Và hôm nay là cái người nào, ở trong cái lớp của chúng ta giữa nam và nữ. Người nào quyết tâm một là chết, hai là chứng đạo. Đưa tay lên Thầy xem coi có quyết tâm. Người nào không quyết tâm thì để tay xuống. Mà người nào quyết tâm lên thì đưa tay lên.
Ừm, thì mấy con quyết tâm phải ráng lắm mấy con. Chứ nó khó, đường đi khó. Mấy con để tay xuống đi. Còn người nào không quyết tâm thì thôi. Thì Thầy cũng không dám khuyên họ, bởi vì họ không quyết tâm; thì bởi vì tu mà có quyết tâm thì mình mới cố gắng mình xả.
Coi vậy chứ, xưa người ta bày Pháp Nguyên Thanh nói như vậy chứ xả khó lắm mà mấy con. Không phải dễ đâu. Phải hết sức mình mới xả được chứ không phải thường. Như cái lớp hôm nay mấy con đưa tay là quyết tâm đó. Nhưng mà Thầy biết con đường tu cho đến giải thoát rất khó chứ không phải dễ.
Vì vậy mà luôn luôn lúc nào Thầy cũng sát bên mấy con. Mới có thể giúp mấy con vượt qua, chứ nếu mà Thầy lơ đễnh thì chắc chắn là mấy con sẽ không vượt qua nổi. Vậy mấy con ráng, Thầy giúp đỡ còn mấy con không ráng thì Thầy không giúp đỡ được.
(2:37:33) Cho nên hôm nay là coi như là chúng ta sắp sửa bước qua một cái giai đoạn thực hành. Hôm rày là chúng ta học lý thuyết, nhưng trong lý thuyết chúng ta vẫn thấy có sự buông xả nhẹ nhàng trong tâm. Nhưng chưa phải là tới lúc thực hành. Còn lúc thực hành thì lại rốt ráo. Có hai phần, nếu sau trong một tháng Thầy để mấy con thực hành sự quán xét xả tâm.
Nếu Thầy kiểm nghiệm được sự kết quả do mấy con tự xả thì Thầy đỡ, Thầy không có cực khổ. Nếu trong một tháng mấy con tự xả mà không được thì buộc lòng Thầy phải cho từng, từng niệm để mấy con làm bài. Thầy chịu khó phải chấm bài. Để con triển khai cái sự xả tâm của con từng tâm niệm, còn nếu mấy con đã học hiểu biết mấy con tự quán xét từng tâm niệm của mình để xả tâm, để đem lại bình an cho trên Tứ Niệm Xứ. Thì Thầy khỏi cực. Và đồng thời lúc bây giờ thì mấy con tự giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Nhất là giới độc cư.
Thì Thầy được rảnh rang, Thầy sẽ lo cái phần chỗ khác như lo về Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện. Để lo lắng tất cả mọi sự cho nó thành tựu được cái trung tâm. Kế nữa là Thầy lo soạn thảo cái bộ giới luật cho hoàn tất. Bởi vì bốn cuốn giới luật Tỳ kheo nữa. Nếu mà cứ cái đà này thì Thầy không làm sao viết được gì hết. Bởi vì đọc nội bài vở của mấy con không thì cũng mệt rồi đâu mà soạn thảo, còn đâu mà viết cái gì, các con thấy. Đó như vậy, nếu mà mấy con tự tu được mà Thầy trắc nghiệm được trên sự tu được mấy con xả tâm được thì thôi. Mà bằng không thì Thầy phải chịu cực khổ. Thầy viết dù một trăm ngàn tác phẩm không bằng Thầy tạo một người tu chứng.
(2:39:18) Đó là cái điều quan trọng mấy con. Một người tu chứng hoàn toàn, chứng quả A La Hán có đủ Tam Minh. Thì điều này là một cái tác phẩm sống động, còn Thầy viết một ngàn bộ kinh mà không có một người tu chứng, thì một ngàn bộ kinh chỉ là một số không của một, của con đường Thầy đang giảng mấy con. Và Phật pháp thì mai một rồi, không còn nữa mấy con. Thầy dù muốn dù không thì nó vẫn khép kín lại, nó không còn có nữa.
Cho nên Thầy mong rằng sự quyết tâm của mấy con là vừa giúp cho mấy con giải thoát mà cũng là vừa chấn chỉnh lại Phật giáo. Mấy con thương mình thì thương tất cả chúng sanh. Thương tất cả chúng sanh thì phải nỗ lực, phải nỗ lực tu để cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo còn mãi trên thế gian này. Nếu không có thì chắc chắn nền đạo đức Nhân bản - Nhân quả sẽ khép kín lại và Thầy sẽ ra đi.
Thầy nói như vậy là quả quyết chứ không phải nói đùa, nói chơi. Bởi vì Thầy thấy chẳng ích lợi gì, ở lại thế gian này làm gì, có ích lợi gì đâu mà ở lại, nấn níu nữa. Còn có người tu chứng thì còn có người thừa kế, còn có người thắp sáng. Còn có nền đạo đức dựng lại của Phật giáo. Mấy con phải cố gắng!
Đến đây Thầy xin chấm dứt rồi Thầy sẽ trả lời cho mấy con về câu hỏi mà mấy con hỏi, Thầy sẽ trả lời trong buổi khác. Hôm nay hết giờ rồi. À, còn 3 tập này nhờ Liễu Huệ trả lại cho mấy cô giùm Thầy rồi chúng ta nghỉ. Rồi Thầy sẽ sắp lớp mấy con. Sắp lớp, cái người nào mà tu sao Thầy sắp lại hết, chứ không phải là mình ngồi học chung nữa đâu. Sắp lớp rồi Thầy triển khai. Có gì không con?
(2:41:11) Tu sinh: Dạ thưa Thầy, cái này nộp bài.
Trưởng lão: Nộp bài hả con?…
Tu sinh: …Tên…
Trưởng lão: À, Thầy sẽ bắt đầu, Thầy bây giờ mấy con còn lên hỏi Thầy đặng làm bài còn mấy bài nữa. Như hiện giờ là cái bài cuối cùng là bài Tâm Xả. Nãy giờ mấy con cố gắng nghe tâm xả. Tất cả mọi sự việc, còn nhiều nữa, Nguyên Thanh viết chưa hết đó, mà còn rất nhiều. Cho nên cái bài Tâm Xả rất là độc đáo đó mấy con. Do như vậy mà chúng ta biết là cứu cánh là chỉ có ở tâm xả mà thôi. Cái gì cũng xả hết. Mà xả có phương pháp, xả có cái tri kiến, xả có cách thức chứ không phải muốn xả đại.
Ví dụ như giờ xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, mấy con phải có Tứ Thần Túc, phải có 7 năng lực của Giác chi. Chứ nếu mà mấy con không có Tứ Thần Túc, không có 7 năng lực giác chi thì mấy con không xả được. Đó là xả cuối cùng của mấy con để làm chủ mà. Nếu mấy con không xả được thì mấy con không bao giờ có Tam Minh, mấy con phải hiểu được vậy.
Cho nên từ cái xả tất cả mọi cái, mấy con từ cái Tri kiến của mấy con đều xả cho đến khi mà mấy con tập tỉnh thức đều xả hết. Mọi Pháp đều là nhằm vào cái mục đích đó hết. Đó thì như vậy rõ ràng cái Pháp xả là cái Pháp cuối cùng của Tứ Vô Lượng Tâm, cho nên chúng ta ngồi đây mà nghe một cái bài đọc dài như thế này. Lúc nào chúng ta cũng thấy toàn là một Tâm Xả. Nói như vậy chứ hoàn toàn chúng ta nói đến Tâm Xả chúng ta thấy trong đó từng chi tiết.
(2:42:37) Có nhiều cái chúng ta nghe nó có cái mới mẻ nhưng mà không mới mẻ gì hết. Tại vì chúng ta chưa có lần nào nghe cho nên chúng ta thấy mới mẻ chứ không phải mới mẻ.
Cho nên vì vậy mà cố gắng, người nào có đặc tướng tâm Từ thì thực hiện tâm Từ thì trong từ có Xả. Mà người nào có đặc tướng tâm Bi thì tu tâm Bi, thì tâm Bi có Xả. Người nào có đặc tướng tâm Hỷ thì tu tâm Hỷ, ở trong đó có xả. Mà người nào có đặc tướng tâm xả thì chúng ta nên thực hiện tâm xả thì trong đó có Từ Bi Hỷ đủ. Cho nên tự cái Pháp đó. Tự cái Pháp độc nhất đó nó có cái đó chứ không phải là chúng ta kết hợp cái Từ Bi Hỷ Xả vào thành một Pháp, không phải.
Chúng ta không có câu hữu cái nhóm đó lại. Mà tự trong đó nó có tự tâm Xả thì nó có Từ Bi Hỷ. Còn tự tâm Từ thì nó có Bi Hỷ Xả của nó, trong đó có.
Cho nên chúng ta tu một Pháp mà có cả những Pháp khác. Nhưng mà không phải Câu Hữu. Vì không Câu Hữu, cho nên nó là chuyên nhất. Còn nếu chúng ta câu hữu lại thì đó là không phải là Pháp chuyên nhất. Như vậy thì hôm nay mấy con rõ, Thầy lần lượt Thầy sắp xếp cái lớp cho xong. Ngày mai thì coi như là bên nữ nhưng ngày mai bên nam cũng tập trung lại để Thầy sắp xếp cho.
(2:43:56) Tu sinh: Ngày mai bên nam đó Thầy.
Trưởng lão: À, ngày mai bên nam thì bên nữ cũng tập trung lại đây để sắp xếp lớp cho.
Tu sinh: Thì buổi chiều nay tụi con khỏi lên ạ.
Trưởng lão: Khỏi mấy con. Chiều nay khỏi. Ngày mai tập trung lên. Rồi Thầy sắp xếp lớp cho nó xong cái sắp xếp lớp. Người nào ở lớp nào, lớp nào để cho mình biết mình tu tập. Nó như vậy là đem hết sức lực của mình ra tu. Trong cái lớp này là lớp thực hành đó. Kế tới khi mà có làm bài Tâm Xả mấy con, mà Thầy chấm cái bài tâm xả xong, Thầy trả lại cái bài Tâm Xả xong. Thì mấy con khép mình trong khuôn khổ tu. Nghĩa là hằng ngày tu mà trong cái thứ hai, thứ ba. Thứ hai là nữ, thứ ba là nam.
Trong những ngày đó là những ngày kiểm nghiệm lại coi mấy con tu trong một tuần. Nghĩa là mấy con không còn hỏi Thầy gì nữa hết. Nhưng mà đến cái ngày đó thì chúng ta dẹp bàn ghế ra hết. Ở đây chúng ta ngồi trên tư thế ngồi xếp bằng, ngồi tu, trong khi đó Thầy kiểm tra cái sự nhiếp tâm và an trú tâm của mấy con trên Tứ Niệm Xứ. Và cách thức xả từng tâm niệm của mấy con. Thầy kiểm nghiệm trong suốt 30 phút, 1 giờ hoặc 2 giờ. Nếu mà người nào có thể ngồi trong thời gian lâu hoặc là trong 4 oai nghi: Đi, đứng, nằm, ngồi.
(2:45:06) Chẳng hạn bây giờ mấy con tu tập ở trong cái thời gian đó. Thì cái kia, cái lớp của mấy con, cái lớp mà tu đó, chia ra rồi. Thì bắt đầu mấy con sẽ thực hiện ở trong đó thì trong khi con có thể tu Tứ Niệm Xứ được bốn oai nghi. Còn người nào ngồi lâu được thì cứ ngồi, người nào ngồi lâu không được thì cứ một lúc thì ngồi, một lúc thì đi hoặc đứng, lúc thì đứng, điều kiện là bốn oai nghi.
Thầy đều theo dõi từng tâm niệm của mấy con. Coi thử coi mấy con có xả được cái tâm của mấy con không. Chừng nào mà mấy con Thầy thấy xả được thì lúc bây giờ Thầy để cho mấy con tự tu. Còn nếu chưa được Thầy gom cái lớp tu xả không được, Thầy cho qua một bên. Đó thì bây giờ mấy con không còn nói nữa. Không có người nào mà xin Thầy lên lớp trên, lên lớp dưới được nữa hết, phải không? Bởi vì Thầy kiểm nghiệm mà, kiểm nghiệm cái trình độ mấy con xả không được mà ức chế thì Thầy cho mấy con qua lớp đó Thầy dạy về Chánh Tri Kiến để triển khai cái tri kiến của mấy con, để mấy con biết cách mấy con xả. Chứ không khéo mấy con bị ức chế nữa thì mấy con không tới đâu.
Còn cái những người nào mà Thầy thấy cũng đúng là họ xả được, họ có đủ cái tri kiến họ xả. Thì lúc bây giờ đó, từng cái tâm niệm, từng cái cảm thọ. Như hồi nãy Nguyên Thanh nói về cảm thọ, có ba cảm thọ xả đó. Mấy con lưu ý cái phần đó. Cũng là xả cảm thọ, cái cách thức xả đó. Cho nên tất cả những cái bài học hôm nay mà chúng ta được nghe đó, là chúng ta chú ý từ cái chỗ thấp cho đến chỗ cao. Cho nên chúng ta hoàn toàn đi trên con đường xả. Do đó khi mà tu Tứ Niệm Xứ là xả chứ không có gì hết. Xả bằng tâm Từ, xả bằng tâm Bi, xả bằng Hỷ, xả bằng tâm Xả. Các con nhớ điều đó. Cho nên vì vậy mà người nào chuyên về cái phần nào thì mấy con ngồi thì Thầy sẽ theo dõi Thầy biết. À, Thầy biết Thầy sẽ sắp xếp lớp của mấy con lại hẳn hòi. Bây giờ Thầy sắp xếp cho cái lớp tuổi trẻ, lớp già cho nó riêng ra. Rồi bắt đầu Thầy cho mấy con vào đây Thầy kiểm từ cái ngày thứ hai, thứ ba, hai ngày, ngày nữ ngày nam để cho nó phòng rộng chứ nó chật vầy thì Thầy kiểm không hết đâu.
(2:46:59) Vả lại nếu có khác ấy Thầy sẽ chia ra làm 3 lớp hay 4 lớp, thêm những ngày khác nữa. Để Thầy kiểm cho xong hết rồi thì phân ra các lớp rồi thì bắt đầu mấy con ở trong thất mà nỗ lực sống độc cư trọn vẹn mà xả tâm. Đó là xả cho rốt ráo. Mà cứ mỗi tuần đều có sự kiểm tra lại hết, để không khéo mấy con lỡ mấy con ức chế một cái là, thì nó nguy hiểm cho mấy con. Các con hiểu không? Sơ suất một chút ức chế là nó nguy hiểm, nó sai Pháp, nó không có đúng cách. Cho nên Thầy theo dõi, bởi vì từng hướng dẫn mọi người, Thầy biết rằng, hễ để họ tự tu một thời gian sau là họ bị ức chế, họ không xả. Cứ ngỡ tưởng là họ xả nhưng mà không ngờ là họ bị ức chế tâm.
Cho nên hôm nay đó, nhất định là Thầy quyết tâm, Thầy quyết tâm giúp đỡ cho mấy con tu cho đạt được. Cố gắng, mấy con giơ tay tất cả mọi người thì mấy con phải làm cho đúng với cái ước nguyện, cái hạnh nguyện của mấy con; đã đưa tay báo cho Thầy biết là cái sự quyết tâm của mấy con. Như mấy con nhút nhát là coi chừng Thầy kiểm tra là nói một lẽ mà làm một lẽ nữa thì chờ mấy con ra cái lớp khác. Chứ không cho mấy con ngồi ở trong cái lớp tu tập. Đến đây thì chúng ta chấm dứt. Thì chúng ta sẽ đi khất thực mấy con. Hết giờ rồi.
Tu sinh:.. chứng ngộ…
Trưởng lão: Ừ được rồi con. Thôi rồi.
Tu sinh: Dạ, bạch Thầy… hướng dẫn…
Trưởng lão: À, cái dàn bài đó con rồi con làm. Ừ, Thầy chưa cho hết con.
Các con thấy cô Huệ Ân già rồi, cô còn xin học để mà khai triển cái tri kiến trên cái tâm Từ Bi Hỷ Xả đó.
HẾT BĂNG