LCK 062B (NỮ) - QUÁN THỰC PHẨM BẤT TỊNH - NGUYÊN THANH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 16/01/2006
Thời lượng: [02:20:00]
(00:00) Nguyên Thanh: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Thầy và kính thưa Đại chúng! Học trò Nguyên Thanh học lớp Chánh Kiến, con xin đọc bài viết số 12 chủ đề Quán thực phẩm bất tịnh.
Bài Quán thực phẩm bất tịnh này là khi con viết xong rồi thì con thấy là bài Quán thực phẩm bất tịnh này cần phải có thêm một bài để hỗ trợ cho Thực phẩm bất tịnh, thì con viết thêm một bài Quán hạnh thiểu dục tri túc. Bởi vì hạnh Quán thiểu dục tri túc nó phải đi song hành với bài Thực phẩm quán bất tịnh. Cho nên hôm nay con sẽ đọc liên kết luôn cho hai bài này. Tức là bài Quán thực phẩm bất tịnh và Quán hạnh thiểu dục tri túc.
Vấn đề ăn uống là một vấn đề quan trọng đối với tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Nếu sống mà không cần ăn thì có lẽ tất cả chúng sanh đã thành Thánh cả rồi. Đức Phật Thích Ca khi còn là một vị thái tử đã nói một câu đầy ý nghĩa: "Sự sống, sống bằng sự chết".
(01:21) Hãy nghĩ lại mà xem, từ khi lọt lòng mẹ đến bây giờ để được sống mỗi chúng ta đã làm chết biết bao sinh vật rồi. Chúng ta ăn, chúng ta uống, chúng ta thở, chúng ta nằm, chúng ta đứng, chúng ta đi, mỗi mỗi động tác như thế đều đã gây bao tang tóc cho những sinh vật ở xung quanh chúng ta. Đó là chưa kể những kẻ hung ác (ưa giết) để được thích thú, được tiền tài danh vọng. Nếu sự sống mà không làm chết ai cả, thì cuộc đời sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu! Sự ước mơ này có thể thực hiện được một phần lớn nếu chúng ta áp dụng phương pháp Quán thực phẩm bất tịnh và Quán hạnh thiểu dục tri túc mà đức Phật đã đề ra, để giảm đi một phần nào đó sự ham ăn, ham uống làm đau khổ mọi loài.
Chấp nhân đời sống thiểu dục tri túc biết đủ để rèn luyện chính mình, tiến tu trên đường đạo. Quán thực phẩm bất tịnh để tâm ta nhàm chán những khoái khẩu dục lạc mà đã bao nhiêu ngàn kiếp trói chặt tâm ta. Giờ đây ta tập buông xả lần lần để sự ham ăn hốt uống không còn trói chặt tâm ta nữa. Quán thực phẩm bất tịnh chính là một phương pháp tu hành rất quan trọng mà người tại gia hay xuất gia cần phải học tập thực hành được nhiều chừng nào thì được nhiều kết quả tốt đẹp ấy.
(03:01) Thế nào là quán thực phẩm bất tịnh?
Quán: nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát cho thấu đáo.
Bất tịnh: nghĩa là không sạch.
Quán thực phẩm bất tịnh: nghĩa là tập trung tư tưởng để quán sát một cách tường tận về sự dơ bẩn của thức ăn.
Nội dung của quán hạnh thực phẩm bất tịnh:
Người đời thường nhiều thường đua chen rong ruổi theo vật chất không biết bao nhiêu cho vừa. Người thiếu thốn ham muốn đã đành, những người dư giả tiền bạc lấy thước mà đo thế mà vẫn còn ham muốn. Đã ham muốn thì không bao giờ thấy mình đầy đủ cả. Ngạn ngữ có câu: “Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy”*.* Thật đúng như thế, lòng tham đã không đáy thì làm sao mà đầy được, phải không hỡi các bạn. Để đối trị lòng tham lam, đức Phật dạy chúng ta học pháp quán tâm là vô thường, thân là bất tịnh và trước khi ăn ta phải quán thực phẩm bất tịnh để xa lìa lòng tham lam cố hữu.
Kế đó Phật khuyên chúng ta phải sống Thiểu dục tri túc. Trong khế kinh có nói: “Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng du vi an lạc, bất chi túc chi nhơn, tuy xứ Thiên Đường diệt bất xưng ý”. Nghĩa là người biết đủ dù nằm trên đất vẫn an lạc. Trái lại người không biết đủ dù ở cung trời cũng không vừa ý. Vậy muốn được thoát khỏi cảnh ta bà đau khổ này để có một đời sống sung sướng, an vui tự tại như các bậc Thánh A La Hán, chúng ta cần phải học tập hai pháp Quán tưởng đó: quán hạnh thực phẩm bất tịnh và quán hạnh thiểu dục và tri túc.
(04:58) Quán hạnh thức ăn bất tịnh: con người một loài linh thiêng trên quả đất này có được một thể chất và trí tuệ: tinh - khí - thần, là biểu hiện của quá trình chuyển hóa vật chất. Tinh thần năng lượng. Khí mà hình thức cao nhất là Thần. Thần chỉ có ở con người đó là Trí tuệ. Nhờ đó mà con người biết tư duy có ý chí, có tình cảm khoa học và nghệ thuật.
Cơ thể con người là một hệ thống nhất. Trong đó thể chất, tinh thần, tâm linh là một. Tất cả những biểu hiện của con người không phải chỉ là một tác động sinh hoá đơn giản, mà là một sự hòa hợp với lực sống lan tỏa hồi khắp. Đó là thực lực tiềm ẩn của vũ trụ, nguồn năng lượng tiềm ẩn làm cho con người sống động có sinh khí không cần phải tìm đâu xa. Trên thực tế cơ thể chính tự nó là một đơn vị điện tử. Toàn bộ vũ trụ là gồm các rung động (âm ba), rung động của năng lượng và cuối cùng là rung động của ý thức.
Cũng vậy thế giới vật chất của chúng ta, vật chất, tiếng động, ánh sáng, tư tưởng là các sóng rung động ở tần số khác nhau. Những rung động này làm ảnh hưởng đến cơ thể và tâm trí chúng ta. Thật ra cơ thể không những huyền bí hơn chúng ta tưởng mà nó còn huyền bí hơn chúng ta có thể biết. Cả cơ thể lẫn tâm trí đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi loại thức ăn chúng ta ăn vào, thức ăn sẽ tác động mạnh mẽ lên tâm trí chúng ta. Nếu cơ thể tăng trưởng dựa trên thực phẩm, thức ăn từ thịt súc vật thì những khuynh hướng thấp hèn sẽ chiếm hữu và tâm trí chúng ta sẽ nghiêng về tính hạ liệt.
(06:49) Ăn thịt là ăn thức ăn đã chết, nguồn năng lượng cho sự sống đã bị tiêu tan, ăn thịt có thể gọi là ăn ở cuối dây chuyền thức ăn. Cây cỏ ăn ánh sáng mặt trời, không khí, nước. Động vật ăn cây cỏ, thú lớn và con người ăn những con vật nhỏ hơn. Trái lại các cây xanh, trái cây, rau và ngũ cốc được nuôi dưỡng bằng năng lượng lấy từ ánh sáng mặt trời. Như vậy khi chúng ta ăn những thức ăn này vào chúng ta trực tiếp tiêu thụ năng lượng Mặt Trời. Tức là được nuôi dưỡng bằng loại thức ăn còn sống, còn năng lượng cần cho sự sống. Thực vật vẫn giữ được nguồn năng lượng tạo ra sự sống trong nhiều ngày, sau khi nhổ hái vẫn còn năng lượng nảy mầm và mọc lên.
Về phương diện giải phẫu của hệ thống tiêu hoá với loài ăn thịt, răng cửa là nhỏ, răng nanh dài, răng cấm rất nhọn, tất cả dùng để xé thịt. Dạ dày lại nhỏ, vị con rất mạnh, chua. Để tiêu hóa mô cơ và xương, ruột lại ngắn chỉ dài 4 đến 5 lần thân hình, thịt thối rữa nhanh và cần phải thải nhanh gấp.
Với loại ăn lá cỏ, răng cửa lại lớn, răng nanh nhỏ, răng cấm rộng và phẳng để nghiền nát thức ăn. Dạ dày to, ruột dài 25, 30 lần bề dài thân hình.
Với loài ăn trái hạt, trong đó có con người, răng cửa trung bình, răng nanh ngắn, răng cấm trung bình và gồ ghề để nhai nghiền nát thức ăn. Dạ dày trung bình, vị phôi cũng trung bình, chiều dài ruột cũng trung bình 10, 12 lần chiều dài thân hình.
Ở con người có 32 cái răng thì chỉ có 4 răng chó. Chứng tỏ nhân quả đã tạo dựng chúng ta khác hẳn với loài ăn thịt. Ruột non của con người dài 4,6 m, xếp thành nhiều đoạn, thời gian tiêu hóa lâu không thích hợp với ăn thịt, là thức ăn dễ thối rữa. Như thế con người sinh ra là để ăn ngũ cốc và các loại rau củ. Có thể nói rằng chế độ ăn tự nhiên phù hợp với loài người là chế độ ăn bằng nguồn thức ăn là từ thực vật.
(09:09) Thịt phần lớn tiêu hóa ở dạ dày và ruột. Rau lá, ngũ cốc tiêu hóa bắt đầu ở miệng với men Amylase trong nước bọt có tính kiềm. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo rằng dân tộc nào tiêu thụ nhiều thịt thì có tỷ lệ mắc bệnh tim mạch và ung thư cao. Uỷ ban dinh dưỡng Mỹ khuyên nên giảm tiêu thụ thịt và tăng lượng rau, trái cây, ngũ cốc. Trong phân người ăn nhiều thịt thì 1m chứa 67.000 vi trùng. Trong phân người ăn chay thì chứa 2.250 vi trùng mà thôi. Vì thế quán hạnh thức ăn bất tịnh là chúng ta từ bỏ ăn thịt, mà ăn chay. Tuy ăn chay nhưng vẫn quán xét thực phẩm là bất tịnh để tâm từ bỏ xa lìa viễn ly không tham đắm.
Thói quen ăn thịt và tính thích chém giết lẫn nhau, chiến tranh không đi đôi được với hạnh phúc của vạn vật trong vũ trụ và sự minh triết toàn mạng. Tâm hồn con người là lương tâm, lương tri, lương năng và con người là một tiểu vũ trụ, là bầu trời rất nhỏ mà thôi, không nên lấy sự sống nuôi sự sống. Sự sống tự nó là thiêng liêng; hủy hoại đời sống kẻ khác để duy trì đời sống của mình không những trái với đạo lý con người mà còn nghịch lại với thiên nhiên. Bảo vệ sự sống còn có nghĩa là bảo vệ môi trường sống, sự trong lành của hành tinh xanh.
Có những phần thưởng ngay từ đầu nếu chúng ta từ bỏ ăn thịt động vật, hệ thống tiêu hóa sạch sẽ hơn, tâm trí trong sáng hơn, mùi của cơ thể thơm nhẹ hơn. Và không những mang lại nhiều sức khỏe mà còn cảm thấy dâng lên niềm vui…. lý tưởng nhân đạo thành hành động và chực nhận ra được ý thức vô hạn nằm bên trong mọi vật. Chỉ ăn thực vật lâu năm, trên bảy năm sẽ có sự thay đổi lớn lao về tâm thần như dục nhẹ, giảm thiểu sự nóng nảy, tâm hồn sẽ trở nên an lạc hơn, dễ dàng gần gũi thông cảm với loài vật và yêu mến thiên nhiên hơn. Theo các nhà khoa học xã hội thì đa phần những kẻ sát nhân đều có nguồn gốc là những đứa trẻ không có lòng nhân từ, thường thích hành hạ và chém giết súc vật.
(11:33) Và đời sống là một huyền diệu trên các huyền diệu, con người không tạo ra được sự sống nhưng có thể gây ra ảnh hưởng tốt đẹp hay tai hại trên sự sống. Và phải chăng thói quen là một bản năng thứ hai, thói quen làm thiện hay không, đang tâm dẫm nát một cành hoa không thương tiếc dù rằng chẳng hại gì ai, nhưng đứa bé đó lòng từ ái đã vắng mặt và tâm hồn trở nên sắt đá với thời gian.
Thứ ẩm thực là quan trọng. Dân tộc ăn nhiều thịt, cực dương các hoạt động họ có khuynh hướng ràng buộc vào thế giới vật chất, không thấy sự quan trọng của thế giới tinh thần và tâm linh. Dân tộc ăn nhiều cá có khuynh hướng tương đối hẹp hòi. Dân tộc nghiêng về thức ăn trái cây, thảo mộc họ từ bỏ một cách dễ dàng thế giới vật chất tương đối này và phát triển hướng tâm linh. Những người nghiêng về thức ăn chế biến đường, sữa, thực phẩm hóa học, mỹ nghệ, kỹ nghệ, thường là làm việc như một cái máy, họ cặm cụi ngày lại ngày để kịp… của xã hội, chẳng hoài báo đến tri thức hay minh triết. Và những ai dùng thức ăn đã từ trong thiên nhiên thảo mộc và ngũ cốc các loại có một vũ trụ quan vô biên: hiểu được thấy được thế giới vật chất và thế giới tâm linh như hòa làm một. Thánh Gandhi đã bảo rằng: "Trái đất có đủ cho nhu cầu của mọi người, nhưng không đủ để đáp ứng lòng tham của mọi người".
(13:15) Có hai loại thức ăn: trì trệ hay kích thích, có một loại thức ăn tạo ra an lành và các loại gia vị.
Thức ăn động, đó là loại thức ăn biến dịch, kích thích tâm trí rối loạn làm tăng nhịp đập thường gây ra cảm giác nóng ruột khó chịu, làm khó ngủ bứt rứt như các gia vị trà, cà phê, nước ngọt, chocolate, mù tạt. Những loại thức ăn này làm dễ tán loạn, khó tập trung tư tưởng khi hành thiền.
Thức ăn tĩnh - thức ăn đem lại cho cơ thể sự trì trệ buồn ngủ, thiếu sinh lực - đó là thịt, cá, trứng, nấm, rượu, thuốc lá, thức ăn đã ươn, lên men, thức ăn đồ hóa chất, hành, tỏi, củ kiệu, hẹ, bột ngọt. Thức ăn trên sẽ làm dễ bị hôn trầm, bần thần.
Thức ăn tri giác - làm cho vui mừng, thích thú, đem lại sự thanh thản, an bình - đó là rau, trái, đậu, hạt ngũ cốc, sữa và sản phẩm của sữa. Sữa có thể gọi là thức ăn toàn diện vì chứa gần đủ các chất bổ cần thiết kể cả chất axit amin thiết yếu. Yaourt dễ hấp thụ. Có năng lượng rất cao: rau, trái, đậu, hạt ngũ cốc, các loại rau thơm và gia vị nhẹ như ngò, rau sống, rong biển, đặc biệt là đậu nành giàu protein thực vật, các loại vitamin và muối khoáng.
Các loại gia vị tạo ra nhiều xáo trộn, kích thích cơ thể và tâm trí làm tăng độ axit trong dạ dày, không giữ được sự an tĩnh thanh thản của tâm hồn, không nên dùng năm gia vị kích thích mạnh như: hành, tỏi, hẹ, boa rô, củ kiệu. Có năm loại gia vị thích hợp cho năm ngũ tạng: thận là mặn, bao tử là ngọt, tim là đắng, gan là chua, phổi là cay. Ăn mặn kích thích thận thủy liên hệ đến tình dục, chỉ ăn thức ăn nguồn thực vật làm cho cơ thể thanh nhẹ, bớt những kích thích động ngoại sẽ thanh tịnh dễ dàng khi hành thiền.
(15:21) Ăn chay để bảo vệ môi trường, 1/4 dân số thế giới bị đói, trong khi 75% sản lượng ngũ cốc lại làm thức ăn cho gia súc. Đậu nành một thực phẩm nhiều protein nhất, được sản xuất ở Mỹ nhiều nhất thế giới mà phần lớn là để cung cấp cho kỹ nghệ sản xuất thịt, làm thức ăn cho súc vật đã làm lãng phí thực phẩm cho con người.
Nên ăn như thế nào để tỏ lòng biết ơn thực phẩm. Trong chén cơm biết bao bàn tay đã góp công sức vào, nên chỉ ăn vừa đủ, bằng lòng với thức ăn đang có. Nên cố gắng giảm thiểu đến mức tối đa những sự hi sinh cho sự hiện hữu của ta và chúng ta bắt đầu sống đơn giản hơn. Ăn chay biểu hiện bằng nếp sống giản dị. Tuy nhiên cần nên nhớ rằng song song đó là phải thận trọng với các hành động của thân, khẩu, ý.
Ăn uống mà không cẩn thận, không biết chọn lọc thì cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây bệnh. Họa từ miệng mà ra, bệnh cũng từ miệng mà vào. Tập quán không ăn thịt động vật, do tác dụng thuần túy vật chất của nó lên tâm linh con người sẽ có ảnh hưởng ích lợi nhất cho vận mạng của nhân loại. Về nguyên tắc chúng ta chỉ nên ăn uống khi đói và khát. Tuy nhiên về phần nước bạn có thể uống với những lượng ít một suốt ngày được, đây là điều nên làm. Và khi bạn thèm ăn cái gì thì nên ăn trên tinh thần là ăn vừa đủ, không thái quá, không bất cần.
Thân thể loài người chúng ta tuy cần ăn uống để sinh tồn song đó chỉ là một loài thực phẩm thô sơ mà thôi. Con người cần phải dựa vào tinh thần mà sống ví như chiếc xe cần phải có xăng mới chạy được. Con người cũng phải nhờ vào ăn uống thì mới có sức sống, mới có thể sinh hoạt, mới có thể vận động được. Song người tu hành không cần phải ăn bổ dưỡng mà phải quán thực phẩm bất tịnh để tâm nhàm chán xa lìa. Thân tứ đại là khối bất tịnh, hôi thối, uế trượt, có gì mà tốt đẹp quý báu đâu mà ta phải xem nó là quan trọng. Hàng ngày nó phải luôn luôn tiếp nhận tứ đại bất tịnh bên ngoài là thực phẩm, nuốt vào những thứ bất tịnh hôi thối ấy có hạnh phúc gì đâu mà chúng ta ưa thích. Những người ưa thích thực phẩm, ưa thích ăn uống là những người ngu si vô minh. Đồ ăn uống là bất tịnh uế trượt mà cứ mải mê ham ăn, hốt uống thì thật là đáng trách, đáng chê. Cuộc sống của họ chẳng có ý nghĩa gì chỉ ăn, ngủ, đi cầu và dâm dục. Toàn là sống trong sự nhiễm ô bất tịnh. Đời sống của họ đang chui vào một cái bao đựng đầy đồ hôi thối, rất đáng thương vậy!
(18:10) Người xuất gia ăn đồ càng dở càng tốt, không có dinh dưỡng thì lại càng tốt hơn nữa, để tâm khỏi phải đắm nhiễm trong những thực phẩm thọ dụng. Thế nên đối với vấn đề ăn uống đừng có quá quan trọng. Ăn là để duy trì mạng sống mà tu hành, không cần phải có quá nhiều chất dinh dưỡng nhưng cũng không ăn những đồ hư hoại khiến cho cơ thể sinh bệnh, đó là thực hành pháp Trung đạo.
Như các bạn đã biết muốn có một bát cơm để ăn thì phải qua những giai đoạn lưu chuyển rất nhiều phần. Ví dụ hạt lúa có thể làm nhân cho những vụ lúa vàng là quả cho những mùa gặt sau nếu người ta đem gieo nó xuống đất; nhưng nó cũng có thể làm cho người ta no bụng biến thành máu thịt trong cơ thể và thành phân bón cho cây cỏ nếu chúng ta đem nấu nó để mà ăn. Như thế một nhân chính có thể thành ra quả này hay quả khác nếu những nhân phụ khác nhau. Muốn thành lúa ở mùa này, thành chẹ lúa ở mùa sau thì phải có đất, có nước, có ánh sáng, có không khí, có thời gian, có nhân công. Muốn nó thành máu huyết thì phải nấu, phải ăn, phải có bộ máy tiêu hóa. Cho nên khi nói nhân quả là tách riêng sự vật ra khỏi cái chung của cùng toàn thể của vũ trụ.
Lấy một khía cạnh nào đó để dễ quan sát nghiên cứu, chứ muốn nói cho đúng thì phải dùng hai chữ Nhân Duyên. Cũng như một nhà khoa học khi muốn nghiên cứu một bộ phận nào trong cơ thể, phân biệt cắt xén bộ phận ấy ra khỏi cơ thể để nghiên cứu cho dễ. Chứ thật ra bộ phận ấy không phải biệt lập, mà trái lại có liên quan mật thiết đến toàn cả cơ thể.
(20:06) Như bây giờ ta quán thức ăn bất tịnh về một quả đu đủ, khi bổ trái đu đủ ra thì rất thơm ngon, từng thớ thịt vàng thơm ngon mát, nhìn thôi cũng đã thấy thích ăn rồi. Nhưng để quả đu đủ một hoặc hai, ba, bốn ngày sau chúng ta thấy trái đu đủ bắt đầu nổi men trắng lên lấm tấm những hạt mốc đen bầm tím xung quanh trái đu đủ, mùi chua và mùi thối bốc lên. Những thớ thịt ngon mát bây giờ không còn nữa thay vào đó là sự thối rữa đụng đâu rệu đó, bể nứt ra, vi khuẩn và dòi đục nát trái đu đủ. Trái đu đủ được trở thành phân bón cho cây đu đủ khác, nhờ phân bón nên cây tốt tươi ra hoa kết trái cho những quả đu đủ ngon ngọt. Và như vậy sự lưu chuyển sinh nghiệp của cây đu đủ đi từ dạng này đến dạng khác biến đổi không ngừng. Bất cứ một vật gì trên cuộc đời này đều biến đổi sanh diệt như vậy cả.
Có lần tôi nghe một người bạn kể rằng muốn làm xì dầu cho ngon, bán cho đắt hàng người ta chế biến từ xương bò, xương trâu, da trâu, da bò. Người ta nấu xì dầu với một dung lượng axit rất cao để làm tiêu hủy xương của động vật. Đối với chất cặn bã thì người ta bón phân cho cây, nhờ phân tốt nên cây ra hoa kết trái ngon ngọt. Con người thừa hưởng ăn vào rồi con người lại thải ra nguyên chất cặn bã đó, rồi chất cặn bã đó lại phân bón cho cây, cây ra hoa kết trái con người lại ăn và như vậy sự tuần hoàn liên tục trong từng mỗi chu kỳ. Vì thế trên cuộc đời này con người và vũ trụ có một mối liên hệ thân thiết với nhau. Bằng chứng cụ thể là rau cải, để xuống nước thì nổi, thịt cá lại chìm, rau cải để lâu ngày thì thấy héo khô, ung bấy và ít hôi. Còn thịt cá để lâu ngày thì sình ương hôi tanh, không ai chịu nổi. Và khi ăn vào có thấy trong người rất nặng nề, mệt nhọc và khó tiêu.
(22:21) Khi quán xét một đĩa thức ăn bất tịnh ta thấy có đặc điểm như sau: bắt đầu lên men chua, mốc meo bị rữa, chất…, mùi đăng đắng sình lên với những hạt đen li ti bao quanh phần thức ăn. Trên lớp thức ăn có một lớp màng bao quanh đó là màng lên men và đó cũng là vi sinh vật đang ăn nên tạo một lớp màng men. Nếu để thêm một tuần đĩa thức ăn sẽ biến thành một chất lỏng sền sệt màu vàng xanh xám, lúc đó thức ăn đã bắt đầu khô lại, vi khuẩn đã ăn gần hết. Nếu để thêm một tháng thì dĩa thức ăn sẽ biến sạch không còn, các côn trùng và vi khuẩn đã ăn hết, nhưng vẫn còn sót lại chất hôi chua mùi cháy nám của thức ăn, mùi cháy nám này do vi khuẩn tạo thành.
Hơn nữa ngay khi con vật bị giết protein trong cơ thể đông lại và các chất men tự hoại được phóng thích ra, thịt súc vật, cá, trứng phân hủy và thối rữa rất nhanh. Thịt sống thối rữa có thể làm nhiễm độc bàn tay người nấu, vi khuẩn gây độc hại không bị tiêu diệt hết ngay cả khi đun nấu. Nên nhất là khi nấu chưa chín thịt ở lại trong cơ thể năm ngày mới được đưa ra hết, còn thức ăn khác như rau củ hoặc thịt nấu chín thì chỉ cần một ngày rưỡi. Vì thế thức ăn thịt cá để khoảng hai ngày đã thành thức ăn bất tịnh, nếu chúng ta tiếc không đổ thì ăn vào sẽ bị bệnh. Vì thức ăn đó đã bị ruồi, bọ, dòi rúc rỉa, mùi hôi thối xông lên không ai chịu nổi, cái đĩa thức ăn đó chẳng khác gì cái thây chết.
Con người là động vật cao cấp nhất sử dụng cả thức ăn thực vật lẫn động vật. Lượng thức ăn ở trên Trái Đất cũng chỉ nuôi được một số người nhất định nào đó và nếu quá giới hạn cho phép con người sẽ bị đói và bệnh tật đe dọa. Cuối cùng trong vòng tuần hoàn của môi trường sinh thái những vi khuẩn và virus sinh bệnh sẽ ăn thịt con người lại, phân hủy cơ thể con người thành các chất khoáng để trả lại cho thiên nhiên.
(24:33) Mỗi năm ở Hoa Kỳ có khoảng 80 triệu trường hợp bị mắc bệnh do thực phẩm gây ra. Trong đó có đến 10 triệu người Hoa Kỳ bị bệnh có liên hệ tới ăn thịt động vật. Bởi vì trong thịt có quá nhiều chất độc hại như các vi khuẩn, các ký sinh trùng, các chất cặn bã của thuốc thú y và các chất hóa học nặng như chì, thủy ngân còn đọng lại trong thịt. Ngày nay để giảm phí tổn đồng thời làm giảm bớt chất phế thải của súc vật, các nhà sản xuất thịt tại Hoa Kỳ đã pha trộn khoảng 40 tỷ ngàn cân Anh để phế thải; đồ phế thải lấy từ các lò sát sinh hàng năm và hàng tỷ phân gà lấy từ các xưởng chăn nuôi vào thức ăn heo, bò và gà. Riêng phân gà càng ngày càng được các nhà sản xuất thịt dùng nhiều để nuôi bò. Bất kể điều đó có thể gây hại tới sức khỏe của người tiêu thụ.
Được biết đồ phế thải của gà là nguồn sinh sản ra vi khuẩn, trong số đó có (Salmonella và Escherichia coli (E. coli)) là hai loại vi khuẩn có thể gây ra bệnh cho con người, cũng như các ký sinh trùng của hệ thống tiêu hóa, các chất cặn bã của thuốc thú y và những chất kim loại nặng như chì và thủy ngân. Những thứ vi khuẩn và chất độc này truyền vào con bò và có thể truyền vào những người ăn thịt bò bị nhiễm chất độc.
Trung tâm kiểm soát bệnh dịch (CDC ở Atlanta) ước tính mỗi năm ở Hoa Kỳ có khoảng 80 triệu trường hợp bị mắc bệnh do thực phẩm gây ra, trong số đó có 9.000 người chết. Vi khuẩn (Salmonella) khiến 4 triệu người bị ngộ độc, trong đó có gần 1000 người chết vì vi khuẩn (Enterobacter), loại vi khuẩn này gây ra bệnh viêm cấp tính đường tiêu hóa khiến 6 triệu người bị bệnh mỗi năm và có khoảng 400 người chết. Vi khuẩn E. coli, một loài vi khuẩn tìm thấy trong thịt bò nhiễm độc của cơ sở sản xuất thịt… khiến 2.250 người chết mỗi năm và làm cho 20.000 người lâm bệnh.
(26:53) Giết súc vật để làm thức ăn cho con người có thể là chúng ta đang hủy hoại một cách từ từ Trái Đất của chúng ta đang ở. Hầu như chúng ta ai cũng biết thời tiết và khí hậu đang xáo trộn trên trái đất do sự ấm nóng của đất gia tăng và những trận mưa axit là những vấn đề trọng đại của chúng ta. Nhưng rất ít người biết rằng kỹ nghệ sản xuất thịt đã và đang góp phần không nhỏ nên tình trạng môi sinh nhiễm ô.
Cái khẩu vị ăn thịt ngon của con người đã và đang hủy diệt cây rừng, làm ô nhiễm không khí và nước uống. Đồng thời góp phần tạo nên sự ấm nóng của địa cầu, làm xáo trộn thời tiết và khí hậu ở khắp nơi trên thế giới. Nếu không tự tiết giảm nhu cầu ăn ngon thì chúng ta có thể tự giết hại không những chính chúng ta mà còn giết hại con cháu chúng ta trong tương lai.
Chúng tôi có thể đưa ra những con số thống kê về những con gà nuôi để làm thịt được nhốt như thế nào trong các xưởng chăn nuôi, hay tình trạng dùng thuốc…, hoặc những con heo con sống như thế nào để họ bán cho có nhiều tiền. Nhưng những con số thống kê rất là khô khan, lại khó tưởng tượng được và chúng tôi cũng không thể in những tấm hình màu đầy khủng khiếp của các nhà máy nuôi thú vật làm thịt.
(28:19) Máu và thức ăn không thể trộn lẫn, nhưng chúng tôi có thể kể ra đây cho các bạn biết về lối sinh sống tiêu biểu của một vài loại gia súc. Trong tất cả các cơ xưởng chăn nuôi gia súc, gà mái đẻ phải chịu những nghiệt ngã nhất của đời sống: từ 3 đến 5 con gà được nhốt giữ trong một hộp lưới hình chữ nhật có kích thước khoảng hai gang tay bề rộng và ba gang tay bề dài và chung quanh bằng dây kẽm. Những hộp như vậy được sắp chồng lên nhau, đèn điện được thắp sáng trung bình 20 giờ một ngày để ăn nhiều, đẻ nhiều. Hầu hết gà đều bị cắt mỏ để cho chúng không cắn lộn nhau và bị căng thẳng thần kinh do sống trong một môi trường chật hẹp. Khoảng 95% trứng được sản xuất bởi các nhà máy gà đẻ này.
Gà làm thịt được sản xuất bởi các cơ xưởng tương đối khá hơn gà mái đẻ như trên. Sau khi nở gà được chuyển đến xưởng chăn nuôi và mỗi xưởng có thể chứa đến nhiều ngàn con. Khi gà con lớn dần, sự khủng hoảng tinh thần cũng gia tăng theo vì không đủ chỗ để xoay sở. Nhiều chú gà ở giữa một đám gà ngàn con thường bị chết và bị ngộp thở. Gà được nuôi khoảng bốn tháng, tức cân nặng 3,5 kg là được chuyển đến lò sát sinh để làm thịt bán ra thị trường. Mỗi năm Hoa Kỳ nuôi và giết khoảng 7 tỷ con gà để làm thức ăn cho con người.
Heo cũng được nuôi giữ trong những điều kiện chật hẹp tương tự. Họ nuôi chúng với kỹ thuật mới về di truyền tính, làm cho heo thật mau lớn với phí tổn thật ít, thực phẩm của chúng thường trộn đủ loại thuốc. Heo cái chịu đựng thê thảm nhất, chỉ năm ngày sau khi sinh ra heo con, mẹ con chúng bị tách rời khỏi nhau ngay để heo mẹ được thụ tinh nhân tạo tiếp tục chu kỳ đẻ mới. Heo con được nuôi khoảng 5 đến 6 tuần là bị giết để chế tạo món thịt lưng muối xông khói. Một số khác nuôi đến 18 tuần là bị giết để chế thành dăm bông và sườn.
(30:30) Cũng như heo, bò con được sinh ra là bị tách rời khỏi bò mẹ ngay, nhiều khi không có cơ hội ngậm vú mẹ lấy một lần trong cuộc đời. Bò mẹ cũng không có cơ hội âu yếm liếm lên mình đứa con bé bỏng đáng thương mà nó đã mang nặng đẻ đau để đưa vào cuộc đời. Bê cái nuôi riêng để thành những cái máy đẻ mới. Con bê đực được nuôi trong những cái chuồng rất hẹp bề ngang để bê không thể nhúc nhích được. Vì người tiêu thụ muốn thịt mềm chúng bị nhốt trong bóng tối suốt 100 ngày và được cho ăn bằng các thực phẩm lỏng nhân tạo không có chất sắt, cốt để cho con bê thiếu máu, khi làm thịt chúng có màu hơi tai tái mà nhiều người thích ăn. Cũng chỉ vì chiều theo cái ý thích của các thực khách mà cuộc sống của những con bê trở nên khốn khổ, tù tội và tiêu chảy suốt đời do ăn loại thực phẩm lỏng đặc biệt để thịt được mềm.
Con bò sữa cũng vô cùng đau đớn vì thường xuyên bị chích thuốc kích thích BCH, mục tiêu sản xuất thật nhiều sữa để cung cấp cho con người. Kích thích tố BCH tạo nên sức ép lớn từ cảm giác đến cơ thể, các bộ phận bị ép lớn và rộng thêm ra, từ chân cẳng đến bầu sữa. Bầu sữa lớn đến nỗi họ phải dùng những túi nâng vú để nâng đỡ sức nặng và để cho vú khỏi chạm đất. Năm 1930 trung bình một con bò vắt sữa sản xuất được 12 cân Anh sữa. Đến năm 1988 được sản xuất gia tăng đến 39 pound (cân Anh) và ngày nay là 49 cân Anh một ngày.
Nỗi đau khổ khi sống của những con gà, con heo, con bò nói trên không diễn tả hết được, thì khi chết cũng khó mà diễn tả được nỗi khiếp đảm của chúng. Những con bò khi được chuyển lên xe đưa về lò sát sinh là chúng đã bắt đầu sợ hãi. Có những con không chịu lên hay xuống xe tải nên bị kéo bằng dây cáp trông rất là thảm thương, chúng cứ ghì lại, nước mắt ứa ra như là có linh cảm sắp lên đoạn đầu đài.
(32:49) Như chúng ta biết hầu hết thú vật đều có bộ não và hệ thống thần kinh như con người, chúng cũng có những cảm giác biết nóng lạnh, sợ hãi và giận dữ như chúng ta. Khi sợ hãi chúng cũng giống như con người là nhịp tim đập mạnh, áp suất máu lên cao, hơi thở hổn hển. Chúng đều muốn sống như chúng ta, có nên vì ngon miệng mà chúng ta đẩy biết bao sinh mạng vào hoàn cảnh khốn khổ như vậy suốt cả cuộc đời chăng?
Dưới đây là các con số thống kê gia súc bị giết hàng năm tại Hoa Kỳ để làm thức ăn cho con người: gà thịt 7.500 con, gà tây 2.900 con, heo 9.500 con, bò và bê 35.000 con, cừu 5.000 con. Tổng cộng là 8.780 tỷ con vật bị giết mỗi năm. Và cứ mỗi giờ có 1 tỷ con vật bị viết để làm thịt cho người dân Hoa Kỳ ăn, trong đó có chúng ta. Theo ước tính trung bình mỗi người sống ở Hoa Kỳ từ lúc biết ăn thịt từ 5 tuổi cho đến chết 75 tuổi, ăn cả thảy hết 3.640 con gà. Các bạn thử tưởng tượng một bầy gà mà 3.460 con lớn như thế nào cho một con người sống từ lúc 5 tuổi đến chết 75 tuổi.
Những người ăn chay đã nói lên lòng nhân từ của họ đối với thú vật, họ không ăn thịt cá bởi vì họ tin tưởng thú vật có quyền được sống và được đối xử như con người. Súc vật không thể là thức ăn cho con người, 15% những người Hoa Kỳ ăn chay cho rằng lòng nhân từ đối với thú vật là nguyên nhân chính thúc đẩy họ ăn chay. Nguyên do chính của tình trạng thiếu ăn ngày nay trên thế giới không phải là vì không thể sản xuất đủ thực phẩm cho con người, mà do sự phung phí thực phẩm của các quốc gia kỹ nghệ, hay nói rõ hơn là nguồn gốc của tình trạng đói bắt nguồn từ sự tham ăn thịt của con người.
(35:05) Những đứa trẻ trong các quốc gia đang phát triển nằm đói bên cạnh những vựa ngũ cốc đang chờ xuất cảng qua các nước tiên tiến làm thức ăn nuôi gia súc, yểm trợ cho nền văn hóa ăn thịt của những quốc gia giàu có. Ăn thịt không chỉ là lý do đưa đến tình trạng thiếu ăn trên thế giới, mà còn là nguyên nhân lớn đưa đến nhiều tai họa khác như là hạn hán, sóng thần, núi lửa, chiến tranh, động đất, mưa đá… Vì thế chúng ta phải thay đổi tập quán ăn thịt.
Các nhà dinh dưỡng họ ước tính rằng nếu dân chúng Hoa Kỳ giảm mức độ ăn thịt mỗi năm khoảng 1% thì sẽ cứu nhiều triệu người đói trên thế giới. Và nếu như không có sự lãng phí thực phẩm thì mỗi năm trên thế giới có khoảng 118 triệu tấn protein thực phẩm dùng cho con người, số lượng này tương đương với 90% số lượng protein thiếu hụt. Con người vì vô minh nên ham muốn ăn ngon thì suốt đời lân la bên cạnh những cao lương mỹ vị, quanh quẩn bên những bàn tiệc vì khoái khẩu trong rượu ngon vị lạc. Thế giới của họ thu hẹp lại trong những món ăn và những người bạn rượu vô minh.
Vô minh có hai kẻ giúp đỡ, có hai bên làm kế hoạch, bọn chúng là ai? Thứ nhất là thức ăn, thứ hai là sắc đẹp. Một cái gọi là thực dục, một cái gọi là sắc dục, hai thứ này giúp đỡ cho vô minh làm đủ thứ chuyện xấu. Cho nên sách nho có nói rằng: “Thực bất tấn nhã”. Nghĩa là háo ăn háo sắc đều là bản tánh của chúng sinh vậy. Song mình phải biết tại sao vô minh chẳng phá được, tại sao phiền não vẫn không đoạn được, trí tuệ tại sao chẳng hiện? đó chính là do mình có lòng tham ăn, lòng ham sắc các bạn ạ.
(36:55) Ăn uống thì trợ giúp cho dục vọng, dục vọng lại làm tăng trưởng vô minh. Con người sinh ra thì biết ăn, con biết sinh ra là biết uống sữa, không có sữa thì nó khóc, uống rồi lại muốn thêm nữa. Đúng vậy lòng tham này mới sinh ra đã có. Sau khi có lòng tham ăn rồi thì sinh ra lòng ham sắc. Con trai thì ham nữ sắc, con gái thì ham nam sắc, luyến tuyến nhau ham muốn không chịu buông bỏ, không thể kìm xuống được. Ăn uống bao nhiêu thứ tinh hoa đều biến thành tinh, hễ tinh lực sung mãn thì sinh ra lòng sắc dục. Cho nên người xưa nói rằng: “Bão noãn tư dâm dục, cơ hàn khởi đạo tâm”. Nghĩa là no ấm thì nghĩ chuyện dâm dục, đói lạnh mới khởi lòng trộm cắp. Khi ăn no bụng rồi con trai nghĩ đến con gái, con gái thì nghĩ đến con trai, chỉ có khởi dục niệm này. Khi nghèo thì nghĩ cách trộm cắp cũng vì để có đồ mà ăn, ăn rồi tình dục lại khởi lên. Thế lên để ăn cho đủ chất dinh dưỡng mập mạp, phì nộn rồi thì lại chỉ khởi lòng dâm dục. Con người trước tiên là khởi lòng ham ăn uống, ăn thật ngon, vì muốn ăn để thân thể cường tráng. Song ăn ít thì không đủ, mà ăn nhiều thì làm sao thỏa mãn được lòng tham, cho nên người ta chết vì sắc vì thực. Nếu vô minh không có thực và sắc toa rập thì chẳng có thể tác hại được ai.
(38:26) Tôi rất cảm phục một người ở Việt Nam, vị đó tức là Hòa thượng Thích Thông Lạc, Ngài không ham tiền, cũng không ham sắc, Ngài chẳng thèm nhìn đến những phẩm vật người ta cúng dường cho Ngài, đó là việc mà kẻ phàm phu không làm được. Bởi vì không ai có thể buông bỏ được lòng tham, thậm chí còn coi tiền tài như tánh mạng nhưng Ngài thì rất thanh thoát coi nhẹ tiền tài; lễ vật chất cả đống một chỗ, ai muốn lấy gì thì lấy Ngài không để ý tới; ai muốn giữ tiền thì cứ giữ chứ Ngài không giữ và để cho những kẻ giữ tiền kia biết xài bao nhiêu tiền cũng được. Những kẻ phung phí đó sau này đều phải trả nợ nhân quả rất khốn khổ.
Các bạn thấy có phải chăng sau đó Ngài đã quản lý tiền một cách chặt chẽ hơn? Không phải vậy! Không những Ngài không quản lý tiền bạc mà ngay đến nhìn Ngài cũng không thèm nhìn nữa. Các bạn coi định lực của Ngài cao như thế nào? Ngài chỉ ăn ngày một bữa ngọ, có gì ăn nấy không đòi hỏi cầu kỳ, có hôm không có nước tương để chấm rau Ngài lấy nước muối hòa với nước lã chấm ăn ngon lành. Bởi vì Ngài không nhập theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cho nên chứng được quả A-La-Hán - làm chủ được sanh, lão, bệnh, tử. Ngài tu hành cảm ứng rất lớn nên Ngài thường bảo hộ Việt Nam này. Có người nhận ra được Ngài Thông Lạc là ai, nhưng cũng có người chẳng biết được đức hạnh của Ngài, do đó nhục mạ, mạt sát Ngài gọi Ngài là ái dư tăng, ông thầy ngu dốt.
(40:13) Năm nay thân thể của Hòa thượng Thích Thông Lạc đã 80 tuổi rồi, bằng tuổi của đức Phật ngày xưa nhưng Ngài vẫn còn mạnh khoẻ, quắc thước, bước đi nhẹ nhàng thoăn thoắt, mỗi ngày đều lên Tổ đường giảng dạy cho các Tu sinh, giọng nói của Ngài rất từ ái và hùng tráng như tiếp sức cho các học trò của mình. Nếu như ai ai cũng tu hành như Trưởng lão Thông Lạc - chẳng tham, chẳng nhiễm - thì Phật pháp nhất định ngày càng sáng tỏ và phát triển, chánh pháp sẽ trụ thế. Ngài đã làm cho tôi hết sức tôn kính và hoan hỉ vì tôi là học trò của Ngài nên tôi luôn lấy tấm gương Ngài soi sáng lại cuộc đời tu của mình các bạn ạ!
Không thể nói rằng tất cả ở Tu viện Chơn Như đều tốt đẹp, đều làm Phật pháp cả. Xong mọi người ở đây đều y chiếu Phật pháp mà thi hành - không chú trọng đến chuyện ăn ngon, mặc đẹp, ở tốt. Họ chỉ chú trọng làm sao duy trì cái thân tứ đại giả tạm này để sống là đủ rồi; nhu yếu của chúng ta là pháp, là mùi vị pháp vô thường. Thế nên mỗi ngày Tu viện Chơn Như đều có giảng kinh, thuyết pháp. Lúc nghe kinh thì cần phải dũng mãnh tinh tấn hết lòng mà nghe. Nghe giảng về những bài đạo đức nhân quả- nhân bản, đừng lười biếng. Các bạn nghe giảng không phải vì Trưởng lão mà nghe, mà nghe là vì mình mà nghe. Nếu các bạn chuyện gì cũng biết thì không cần phải nghe, xong không phải chuyện gì các bạn đều biết cả. Những điều mình biết là ngàn thứ thế trí biện thông, thứ thông minh có thể biện biệt thấu đạt cuộc đời của phàm phu. Học Phật pháp tức là vì mình mà học, không phải là vì Trưởng lão Thông Lạc mà học hay là vì người khác mà học, các bạn hãy ghi nhớ đừng để cho thời gian trôi qua vô ích, rồi sau đó có hối tiếc thì đã trễ!
(42:12) Tôi nhớ cổ nhân có bài thơ như sau:
Sừ hòa nhật đương ngọ
Hãn trích hòa hạ thổ
Thuỳ tri bàn trung xan
Lạp lạp giai tân khổ.
Nghĩa là:
Bừa đất dưới nắng trưa
Mồ hôi đẫm bông lúa
Bưng bát cơm ai biết
Mỗi hạt mỗi gian khổ.
Đa số người đời không biết đến đạo lý "mỗi hạt mỗi gian khổ" do đó họ mặc sức phí phạm của trời, tha hồ hủy hoại thức ăn. Các bạn nên biết rằng lý do nhiều người không có cơm ăn trên thế giới này là vì xưa kia họ đã phí phạm thực phẩm, nên kiếp này họ phải gánh chịu quả báo là không có cơm ăn. Tôi cần phải nói ra đạo đức đơn giản này cho mọi người hiểu rõ để sau không còn phung phí thực phẩm một cách vô lý nữa.
(43:09) Đức Phật dạy khi ăn cơm người tu phải Tam Đề Ngũ Quán. Nhưng thường chúng ta thấy phần đông chỉ quán lấy lệ, chỉ có hình thức bên ngoài, chứ chẳng thật tâm quán tưởng. Ngũ quán, tức là năm điều quán tưởng đó là:
Một: xét công mình tu hành được nhiều hay ít và xét của ấy từ đâu đem đến cúng dường, xem mình có xứng đáng thọ nhận hay không, nếu không xứng đáng mà thọ công khó nhọc của người thì mang nợ. Vì thế chúng ta phải luôn luôn nhớ hổ thẹn mà cố gắng tu hành làm sao cho xứng đáng.
Hai: Xét lại đức hạnh của mình được những ưu điểm nào, còn những khuyết điểm nào để sửa
Ba: Xét ngừa tâm tham của mình, không để nó xâm lấn. Giả sử đi khất thực về thấy toàn rau muống luộc rồi sanh ngán, nghĩ đến món ăn khác. Như vậy là có lỗi tham ăn, chúng ta phải nhớ ngừa tâm tham ấy chớ đòi hỏi. Ăn sao cũng được miễn sống để tu hành là quý rồi.
Bốn: nên xem việc ăn uống chỉ là món thuốc để trị bệnh. Nhưng khi đói quá thì tay chân rũ liệt, không muốn nói, cũng không muốn đi, đó là bệnh chứ gì. Rồi sau khi ăn vài chén cơm thấy khỏe, vậy cơm là thuốc trị bệnh. Mà đã là thuốc thì dù thuốc đắng, thuốc ngọt gì cũng uống, uống cốt để trị bệnh, đừng chê khen gì cả. Nếu chúng ta ăn mà nghĩ ngon dở, tức là đã lệ thuộc vào cái lưỡi, chứ không phải ăn để trị bệnh. Nếu ăn để trị bệnh thì dù đắng hay ngon dở gì cũng được, miễn trị được bệnh đói thì thôi.
Năm: nghĩ mình tu là quyết định thành đạo nghiệp, tức phải thể nhập vào Bốn thiền làm chủ sanh tử, kế đó thực hành công hạnh cứu giúp chúng sanh. Cho nên mới ráng mà thọ món ăn này, chứ chẳng phải no đủ để vui chơi. Chúng ta thấy có rất nhiều người lầm khi nói: “Ăn thứ này bổ có thể lên cân, ăn thứ kia lâu ngày sẽ sụt kí. ” Như vậy đó là chúng ta vì mập ốm chứ chẳng phải vì đạo nghiệp mà ăn. Chúng ta ăn cốt để tu hành thành đạo độ sanh, đó là ý nghĩa mà đức Phật bắt phải quán trước khi ăn. Thế mà hiện nay có người dám tuyên bố trong đại chúng rằng: “Ăn chay đã quá lắm rồi, tại sao lại Tam Đề Ngũ Quán? ” Nghe như vậy tôi cảm thấy thật buồn, bởi vì chúng ta đã bị buông lung. Nếu không hành xét mình thì dễ bị nghiệp lôi.
(45:44) Bởi vậy chúng ta đã sẵn bệnh buông lung, nếu không hành xét mình thì dễ bị nghiệp lôi. Nên Phật bắt buộc chúng ta trong tất cả hành động đều phải tĩnh giác, không để cho thói xấu xâm nhập. Khi ăn chúng ta khởi Tam Đề Ngũ Quán là để xứng với tư cách của người cầu giải thoát. Nếu chúng ta không xét không nghĩ, vừa ăn vừa cười hỉ hả, suy nghĩ lung tung mất Chánh Niệm, rồi nói chuyện nhảm nhí thế gian thì thật là trái đạo.
Có người bảo rằng: “Tín đồ cúng là lẽ đương nhiên, tôi tu họ phải cúng cho tôi ăn. ” Lý luận như vậy thật là không chịu nổi. Họ có thiếu nợ mình đâu mà phải cúng cho mình, sở dĩ họ cúng là vì họ muốn châm một ít dầu vào ngọn đèn Tam Bảo để soi sáng thế gian cho mọi người thoát khỏi mê lầm. Vì chúng ta là những người nhân danh Tam Bảo giữ cho Phật pháp trường tồn ở thế gian. Tín đồ giúp chúng ta là muốn cho Phật pháp được lâu dài để chúng sanh được cứu giúp khỏi vòng sanh tử, chứ chẳng phải họ giúp chúng ta ngồi không ăn chơi. Nhận của tín thí thì phải đủ tư cách của người giải thoát, bằng tu mà tính chuyện tầm phào bắt người cúng dường cho mình là chuyện không thể được. Đó chỉ là lý luận của kẻ si mê, lầm lạc, ngu dốt hạ liệt tuệ.
Tôi nhớ có một câu trong Qui Sơn Cảnh Sách: "Khiết liễu tụ đậu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. "
Nghĩa là ăn cơm no bụng rồi thì chẳng chịu lo tu, nhóm ba, hợp bảy nói chuyện, toàn những chuyện tạp nhạp ở thế gian, toàn những chuyện động trời giật gân, hết dòm ngó lỗi người này, đến dòm ngó lỗi của người kia, đi vô, đi ra thấy người mà mình ghét liếc con mắt háy nguýt như con dao sắc lẹm. Người ta thường nói: “Thấy mặt kẻ thù như kim đâm vào mắt, ở chung với người nghịch như nếm mật nằm gai. ” Cái khổ phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế. Huynh đệ cùng tôn thờ một lý tưởng, cùng tôn thờ một vị Thầy mà đã như vậy, huống chi đối với người không lý tưởng, không thầy, người dưng nước lã, khác giống khác loài. Một khi đã thù ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một ngày xảy ra đại hoạ.
(48:05) Chúng ta không lo sách niệm bên trong, ngoài tuyên nhơn pháp Lục hòa mà chỉ nói toàn chuyện thế gian, tệ nạn ấy hầu như đã lan tràn khắp chùa chiền. Chúng ta ít nghe bàn chuyện giải thoát mà chỉ bàn chuyện luẩn quẩn đâu đâu. Nếu chúng ta cứ bàn chuyện thế gian ngoài chuyện sanh tử, thì làm sao chúng ta thoát được sanh tử được. Chúng ta phải cố gắng làm sao thoát vòng sanh tử để chèo thuyền Tam Minh cứu vớt chúng sanh, đó mới là … của người tu theo chánh pháp Nguyên Thủy. Trong lúc đuổi theo cái vui chúng ta đâu biết rằng vui ấy là nhân đau khổ, hiện tại chúng ta tưởng bàn, nói nhảm nhí, cười đùa đó là vui, nhưng đâu ngờ rằng chính đuổi theo cái vui tạp nhạp ấy là nhân khổ sau này.
Chúng ta chạy theo cái vui sanh diệt thế gian, tức là không tránh khỏi cái khổ sanh tử ngày mai. Nhân sanh diệt tức quả sanh diệt, mà sanh diệt tức khổ não vậy. Nếu chúng ta biết phản tỉnh thì đâu đến nỗi phải lang thang trong sáu nẻo luân hồi bao nhiêu kiếp. Rồi nay lại bị nghiệp lôi cuốn mà sanh ra đây nữa. Nếu vì nguyện độ sanh mà có ta đây thì đâu có mê muội như thế này, đã trôi dạt tự bao lâu nay mà không chịu thức tỉnh, cứ chạy theo cái vui tào lao của thế tục ấy thì biết bao giờ mới thoát khỏi luân hồi. Nếu chúng ta không biết phản tỉnh buông mặc cho thời gian trôi qua, thật đáng tiếc, thật đáng mê muội!
(49:37) Nếu chúng ta thọ nhận của thí chủ càng nhiều, thì thí chủ được lợi lớn mà phần mình thì bị tổn phước. Như trong kinh A Hàm có đoạn nói: "Một hôm ngài A-nan nằm mộng thấy có một cái hầm lớn, dưới hầm toàn là người tu, trên miệng hầm có một cái tấm ván bắt ngang, những người cư sĩ thong thả qua lại trên đấy. Bấy giờ ngài A-nan mới đem điềm chiêm bao nhờ Phật giải thích. "
Phật dạy: "Sau này đệ tử của ta không biết giữ gìn giới pháp, chẳng gắng tu hành, thọ dụng của thí chủ quá nhiều mà không tu nên phải đọa, tức rơi xuống hầm sâu. Còn những người thí chủ phát tâm làm phước cúng dường nên sanh lên cõi lành, đó là hình ảnh của những người qua lại trên cầu. "
Các bạn thấy như vậy có buồn tủi không? Chúng ta tu là để độ cho thí chủ, đằng này trái lại người tu đi xuống, thí chủ đi lên. Họ phát tâm cúng dường thì họ có phước, còn mình không chịu tu thì họa tự mang. Các bạn phải nên nhớ kỹ điều này.
Ở đây tôi muốn chỉ cho các bạn thấy nếu người nào được nhiều thí chủ dâng cấp, rồi cho mình là có phước, ỷ lại rằng phước báu của mình buông lung xài lớn, không biết xét nét, chẳng kể nỗi khó khăn khổ nhọc của đàn na, thọ dụng càng nhiều thì thí chủ càng được lợi mà chính mình lại tổn hại. Ví như người mài dao vào viên đá mài, dao của người mài càng ngày càng bén, mà đá bị mài càng ngày càng mờ. Người thí chủ dụ cho con dao được mài, còn người tu chẳng khác nào viên đá. Người nào đến mài dao cũng bén, còn viên đá thì thiệt thòi. Thế nên đừng tưởng người ta cúng nhiều là vinh hạnh, mà phải thấy đó là tiêu mòn phước đức của mình.
Nói như vậy thì sao, mình có nên thọ cúng dường không, hay nên tự túc? Đây là chỗ cần chú ý. Có lắm người nghe nói như vậy liền nghĩ: “Thôi bây giờ mình phải tự làm để ăn, rảnh lúc nào thì tu lúc nấy cho khỏi thọ của tín thí, khỏi mang tội trầm luân”. Lý luận như vậy có đúng không? Hình như đa số chấp nhận là đúng! Chúng ta nên cẩn thận phải hiểu cho tường tận điều này để không quanh quẩn lầm lạc.
(51:58) Đạo Phật chủ trương đi tu là làm Khất sĩ, làm kẻ ăn mày. Ăn mày đây không có nghĩa là rút rỉa đồng bào, sâu mọt của bá tánh, ăn mày đây là cốt gây duyên lành cho chúng sanh chứ không phải vì muốn rút rỉa khiến cho người phải khổ. Bởi vì muốn độ người thì một là mình phải ban ơn cho họ, hai là họ ban ơn cho mình, đó là kết duyên với nhau. Nếu mình và người không liên hệ gì thì khó mà độ được. Vì là người tu chúng ta không có của cải gì để ban ơn cho họ, thì trước mình nhận ân của họ bằng cách thọ đồ cúng dường, nhưng sau đó mình phải đem giáo pháp của Phật mà bố thí lại, như thế họ giúp mình cơm áo, mình giúp họ đạo lý. Tuy một mặt mình thọ ân nhưng một mặt mình cũng ban ân. Như vậy trên đường tu tuy thấy mình như thiếu nợ, mà thật sự không thiếu. Điều này Phật đã nói rõ trong kinh A Hàm qua câu chuyện bà Di mẫu xin Phật xuất gia.
Di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề xin Phật xuất gia, Phật không cho. Bà rất buồn khổ! Thấy vậy Ngài A-nan bạch Phật: "Thuở xưa Thế Tôn được sinh ra mới có bảy ngày mẫu hậu đã mất, từ đó một tay Di mẫu nuôi nấng Thế Tôn cho đến lớn khôn biết bao nhọc nhằn vất vả. Bây giờ bà xin xuất gia mà Phật không cho, chẳng lẽ Ngài không nhớ ơn sao? "
Đức Phật trả lời: "Chính vì nhớ ơn mà ta đã dạy bà thọ Tam Quy Ngũ Giới, thế cũng đủ để trả ơn rồi".
Như vậy chúng ta thấy cách trả ơn của người tu không phải là đem tiền tài đáp lại, mà chỉ làm sao khiến cho người biết đạo, mến đạo, rồi phát tâm tu hành, đó gọi là đền ơn. Thí chủ giúp ta tài sản, ta giúp lại họ bằng pháp Phật, cả hai bố thí lẫn nhau. Giả sử nay chúng ta thọ nhận của người mà chưa từng bố thí pháp cho họ lỡ họ chết mất chúng ta có nợ họ hay không? Nếu nợ thì làm sao trả đây? Chúng ta nên nhận rõ điều này để tránh khỏi lo âu.
(54:10) Chúng ta nên ý thức rằng chúng ta là kẻ nợ của tất cả chúng sanh, chẳng phải là nợ riêng của một người cúng dường ta mà thôi. Vì sao vậy? Khi mà các bạn tuyên bố xuất gia, tức là đã gánh vác cái nợ lớn lao của toàn thể chúng sanh rồi. Vì bản nguyện của người xuất gia là sự cầu giải thoát và cứu độ chúng sanh. Tức là chúng ta là người gánh vác đưa đón chúng sanh qua khỏi biển trầm luân, cho nên ai cũng làm chủ nợ của mình hết.
Vì thế mà tôi dám tuyên bố một câu mạnh mẽ rằng: “Tôi là kẻ nợ của tất cả, song lười trả lắm, ai biết đòi mới trả. ” Nhưng cái nợ của người tu khác người thế gian. Ngoài thế gian nợ thì họ kéo lưng, kéo áo, còn nợ của người tu thì chuyển làm thầy trò. Như vậy Phật tử cúng dường Tăng - Ni, nếu họ chưa được độ sanh hiện tại thì trong vị lai họ cũng sẽ được độ, vì họ đã có gieo duyên với Tam Bảo. Đã có duyên thì thế nào cũng gặp nhau qua nghĩa thầy trò huynh đệ, làm thầy để độ trò, để cứu vớt họ qua khỏi luân hồi sanh tử. Thế nên nếu là kẻ thật tu quyết chí cầu giải thoát thì nợ của thí chủ bao nhiêu cũng không sợ vì đó là gây duyên để độ người. Chỉ những ai nhát nhúa muốn an phận thì mới sợ lẽ đó, thường nghĩ rằng: “Thôi mình làm tự túc sống, chẳng dính dáng gì đến ai hết. ” Phật gọi đó là ích kỷ chứ không phải là vì chúng sanh. Nói tóm lại nợ hay không nợ cũng tại nơi mình, chúng ta có thể làm kẻ nợ chịu nhiều thống khổ nếu chúng ta không thật sự tu hành, không nhất tâm cầu giải thoát. Ngược lại chúng ta có thể là người độ thoát chúng sanh nếu chúng ta quyết chí tu hành giải thoát.
(56:07) Chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh đức Phật khi xưa, một bình bát trên tay, đến đâu thì vào xóm làng khất thực; ai có cho gì ăn, không cho thì bụng rỗng trống về ngủ, ngồi thiền cho qua ngày đó, hôm sau lại đi khất thực. Chẳng riêng gì Phật mà cả mấy ngàn chúng tăng cũng đều như thế, các Ngài sống không có ngày mai, nhờ thế mà các Ngài luôn nghĩ đến giải thoát. Còn chúng ta vì có ngày mai, tháng tới, năm sau cho nên quên mất chuyện giải thoát. Chúng ta bây giờ không thể theo hạnh khất sĩ như xưa mà chúng ta phải tìm kế sống, tôi thấy các chùa Tăng, Ni phải làm vất vả lắm mới kiếm được bát cơm vì hoàn cảnh ngày nay khác ngày xưa. Nhưng chúng ta phải sống thế nào cho hợp lẽ, chỉ cần nghĩ hôm nay có sống, ngày mai có sống là đủ rồi, đừng nghĩ đến sang năm nữa mà rối loạn tâm không an tịnh, tâm đã không an thì tu hành khó mà tiến bộ.
Đức Phật có lời dạy rằng: "Các Thầy muốn tiến tu đạo nghiệp trang nghiêm pháp thân thì ba việc điều phải chẳng đủ, ba việc đó là: ăn, mặc, ngủ". Chẳng ngủ là hơi thiếu một chút chứ không phải là không mặc, không ngủ. Đôi khi chúng ta hiểu lầm nghe nói chẳng ngủ rồi thức hoài không ngủ, hoặc nhịn đói không ăn, đó chỉ là gốc bệnh. Người thế gian thì ngày ba bữa, lại thêm các món ăn chơi, chúng ta ăn ít hơn họ, ngày một bữa ngọ, thiếu một chút đó là để mình tiến đạo nuôi thân. Mặc cho thế gian quần này áo nọ, chúng ta chỉ vài bộ vải cho ấm thân mà thôi. Về ngủ, người thế gian bảo phải ngủ 8 tiếng mới đủ sức khỏe thì chúng ta ngủ khoảng 4-5 tiếng thôi. Ăn, mặc, ngủ, ta đều bớt thì sự tu hành mới dễ tiến, trên đường tu chúng ta phải luôn hạn chế, phải luôn nhớ hạn chế bớt ba việc này.
(58:04) Người đời đa số đối với ba việc ăn ngủ, thường mê thích không thôi, ngày qua tháng lại sực nhớ thì tóc đã bạc rồi. Người thế gian đối với việc ăn thì chạy đua tìm món ngon vật lạ. Còn mặc thì nay quần này, mai áo nọ, thay đổi luôn luôn thôi. Ngủ thì phải làm sao cho êm ấm, ngủ cho ngon, suốt cả cuộc đời chỉ lo ăn, mặc, ngủ. Có nhiều người nói có vẻ cao thượng nào là lo cho gia đình, xã hội, nhưng chung quy cũng vì bản thân mình trước đã, mà vì bản thân mình cũng là vì cái ăn. Nói thế nghe tầm thường quá, xong các bạn thử xét lại rồi sẽ thấy trên thế giới này người ta đã gieo rắc bao nhiêu sự thống khổ cho nhau cũng vì miếng ăn mà ra cả. Nhân loại vì tranh ăn mà phải đắm chìm trong biển tranh khổ não, chẳng những duyên loài người mà tất cả chúng sanh đều như thế. Hầu hết nguyên nhân các cuộc đấu tranh đều là miếng ăn, miếng cơm manh áo, vì người đời đều say mê theo nó để ngày tháng trôi qua phút chốc bạc đầu. Còn chúng ta là người thức tỉnh thì phải khác hơn chứ, đừng như thế. Nếu cứ mãi lo ăn, mặc, ngủ, nói chuyện mà không chịu tiến tu thì thật đáng hổ thẹn, phải không hỡi các bạn?
(59:27) Tôi nhớ một câu trong bài kinh Quy Sơn Cảnh Sách nói rằng: "Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà-la-môn hội tụ vô thù". Nghĩa là không biết kính những bậc thượng thượng trung hạ tọa, khi tụ họp lại giống Bà-la-môn hung ác. Khi xưa các vị Bà-la-môn mỗi khi tụ họp thì ai đến trước ngồi trước, ai đến sau ngồi sau, không biết kính người lớn, cũng chẳng tôn trọng người đức hạnh, gặp đâu ngồi đó không có thứ tự. Trong nhà Phật thì không phải thế, người có giới đức thì ngồi trên người có ít giới đức hơn. Vì sao đạo Phật chủ trương bình đẳng mà ở đây lại phân cao thấp, thứ lớp như vậy? Đạo Phật bình đẳng trên lý nhân quả, chứ không phải bình đẳng bằng sự ép buộc, hay thỏa bằng ai cũng như ai. Người nào có nhân tốt hơn, tích được quả tốt hơn. Ví dụ: Ở thế gian một ông thợ rèn, rèn được 5 con dao thì được 50 đồng. Còn một ông khác cần mẫn hơn rèn được 10 con dao thì được 100 đồng. Nhân như thế thì quả như thế, đó là bình đẳng. Cũng vậy một vị đi tu 10 năm thật sự có giới đức phải trên người đi tu có 2 năm, tùy theo nhân quả mà đoán định. Đôi khi chúng ta chấp vào hai chữ bình đẳng rồi thấy trong chùa bất bình đẳng, nhưng thật sự trong chùa căn cứ trên nhân quả mà sự cấp bậc có sai biệt, tuy sai biệt mà bình đẳng, bình đẳng mà sai biệt, chủ trương của đạo Phật là như vậy.
Nếu chúng ta không học giới luật, không biết đạo thì làm sao chúng ta biết kính người có đức hạnh. Do đó mà khi tụ hội chẳng có thứ lớp giống như Bà-la-môn. Theo đạo Phật thì người tại gia phải kính trọng người xuất gia đúng phạm hạnh, chứ không phải được coi trời bằng vung, không được khinh thường người xuất gia, không được phê phán người xuất gia, người tại gia phải biết cúng dường và tán thán người xuất gia, như vậy thì mới không tạo ra những kiêu mạn cống cao, nếu không người tại gia sẽ trở nên cống cao ngã mạn, chẳng những không được công đức mà còn tạo tội nữa, theo định luật nhân quả thì chắc chắn sẽ đọa vào ba đường ác.
(01:01:52) Tôi còn nhớ có một người tại gia kiêu mạn hỗn láo mạt sát Trưởng lão Thông Lạc gọi Ngài là Á dư tăng - tức là Ông thầy ngu dốt. Những kẻ này sẽ phải đọa vào ba con đường ác đến khốn khổ. Có một câu thơ xưa nói rằng:
"Thí chủ nhất lạp mễ, trọng như Tu Di sơn.
Thực hậu bất tu đạo, phi mao đái giác hoàn. "
Dịch là:
"Một hạt cơm thí chủ nặng như núi Tu Di.
Ăn xong không tu hành mang lông đội sừng trả. "
Người tu khi thọ nhận sự cung kính của kẻ khác thì phải biết tự phản tỉnh bản thân mình có xứng đáng để nhận sự cung kính chăng. Thân mình mặc áo của người tu nhưng phải chăng mình chẳng khác gì kẻ đời, phải chăng hằng ngày mình thường khởi những tâm thương yêu, giận ghét, phải chăng từ sáng đến tối mình luôn đố kỵ hoặc chướng ngại sự tu hành của kẻ khác. Người tu nếu phạm những điều trên thì không đủ tư cách để thọ sự cúng dường của người tại gia, dù cho miễn cưỡng mà thọ nhận thì vẫn thấy thẹn với lòng. Người tu cần phải luôn luôn chú ý không được hồ đồ ở trong đạo tràng lãng phí thời gian. Nếu sống như thế mà lại thọ nhận sự cúng dường của kẻ tại gia thì thật là điều hết sức sai lầm.
(01:03:16) Vì sao người tại gia đi cúng dường cho người tu, hoặc là hộ trì người tu? Là bởi vì người tu chuyên tâm tu đạo, không có phiền não hay tật đố gì kẻ đời. Nếu được như vậy thì mới xứng đáng với sự cung kính và cúng dường của người tại gia, mới có thể thọ nhận mà lòng không hổ thẹn. Nếu người tu mà không chân thật tu hành, suốt ngày nói chuyện tào lao, thậm chí không cung kính và thiện cảm như người tại gia, thì không có tư cách gì để thọ nhận sự cung kính và cúng dường của kẻ khác. Đây là điều mà mọi người cần phải giác ngộ sâu xa, không thể lẫn lộn mắt cá với hạt ngọc, không nên ở trong đạo mà kiếm miếng ăn.
Ở trong Tu viện chúng ta đừng nên tạo lỗi, mà cần phải làm việc công đức như thế mới bù đắp được những tội lỗi mà mình đã tạo khi xưa. Đầu tiên chúng ta cần phải sám hối, bởi tội lỗi dẫu lớn nếu biết sám hối tội dần tiêu tan. Vậy phải sám hối như thế nào? Chúng ta phải ở trước đại chúng mà kể ra tất cả tội lỗi mình đã làm, phải nói rõ mọi chi tiết của các tội và phát nguyện rằng từ nay về sau tuyệt đối không tái phạm. Như vậy nhân quả mới chuyển đổi cho chúng ta và giúp ta trừ sạch diệt tội. Những tội lỗi trước kia của chúng ta đều là vô tâm lỡ phạm, tức là do vô ý vi phạm. Thì minh tri cố phạm, biết rõ mà vẫn cố ý vi phạm thì dù có sám hối thì cũng không có tác dụng, bởi nó thuộc loại định nghiệp, tương lai của chúng ta tất sẽ chịu quả báo. Chúng ta không nên có tư tưởng ban ngày tạo tội, ban đêm cầu nguyện kể như vô tội, rồi cứ gây nghiệp luôn luôn, mà gây xong thì tiếp tục cầu nguyện sám hối và dần dần tạo thành một thói quen máy móc. Nếu cứ như thế thì tương lai nghiệp tội của chúng ta sẽ chất chồng như núi Tu Di, không đọa địa ngục sao được.
(01:05:19) Trong Tu viện của chúng ta có bậc Thánh A-La-Hán vì thế nếu chúng ta ở trong Tu viện mà cứ luôn gây phiền phức cho người, soi mói lỗi lầm, thì sống trong Tu viện mà một mặt tu hành, một mặt tạo nghiệp, công đức tu được không bằng ác nghiệp tạo ra, thì cũng giống như tiền gửi trong ngân hàng không bằng tiền chi tiêu, nếu không bù được sự thâm thủng thì tương lai sẽ bị phá sản. Bởi thiện ác hai con đường, tu thì tu mà tạo vẫn tạo. Nghĩa là thiện ác hai con đường, một mặt mình tu mà ác nghiệp thì vẫn tạo, do đó đừng nên ở chùa mà chỉ biết tạo nghiệp ác. Hãy nên thường xuyên tìm kiếm lỗi lầm của chính mình, chứ đừng soi mói sự sai trái của người khác. Nếu cứ truy tìm lỗi người, chướng ngại kẻ khác tu hành thì chẳng những bản thân mình không được điều gì tốt lành mà tương lai mình còn phải gánh chịu quả báo, hậu quả khó lường.
Như các bạn đã biết những sự tham muốn quá độ như thèm ăn, thèm ngủ, thèm nói chuyện, thèm đủ thứ làm cho lòng người xao xuyến mất hết cả tự chủ và chỉ còn làm nô lệ cho những cái thèm muốn của mình mà thôi. Một khi đã bị lòng tham dục điều khiển thì con người gây không biết bao nhiêu tội lỗi, dám làm những chuyện hung ác mà chẳng gớm tay. Lại chính vì lòng tham muốn không… mà mình không tự nhận biết, nên đến khi muốn mà không được thì đổ lỗi cho người. Nhân đó sinh ra cạnh tranh xung đột, làm cho nhân loại chịu lắm điều tàn hại. Lòng tham muốn quá độ làm cho con người lóa mắt trước những sự phải trái, thúc đẩy người đời vào con đường tội lỗi. Chẳng hạn một kẻ không có năng lực, đạo đức mà muốn được giàu có lớn hoặc quyền thế to, thì có thể dùng những mưu mô gian xảo, đen tối dã man để đạt ý muốn của mình. Hoặc giả cũng vì muốn được như ý bà vợ yêu quý mà có lắm ông chồng phải bắt buộc làm những việc trái với lương tâm cho đến tan thân mất mạng.
Tóm lại lòng tham muốn làm hại cho loài người không thể kể xiết, vì tham ăn mà sanh ra đau buồn giận dữ, vì tham ăn mà sanh ra dối trá gian tham, vì tham ăn mà sanh ra cạnh tranh xâu xé, nhân loại đưa nhau vào rừng tên mưa đạn. Trong hiện tại lòng tham muốn quá độ tự chạy đuổi theo ngũ dục lạc đã làm tổn hại chẳng những cho mình và cho người, mà trong tương lai chúng ta lại còn đưa con người vào chốn tam đồ ác đạo, nhất là vào vòng ngạ quỷ để phải chịu thiếu thốn cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần. Đó là kết quả thảm khốc của người quá tham lam.
(01:08:08) Áp dụng bài quán thức ăn bất tịnh này vào bản thân:
Thức ăn phải được xem như là thuốc men, mà ngược lại mọi bệnh tật hầu hết đều bắt nguồn từ bên trong cơ thể và tâm trí chúng ta. Nếu chúng ta sống một cách tự nhiên, sống và ăn uống, ngủ nghỉ đúng cách phù hợp với quy luật hài hòa của vũ trụ thì chúng ta sẽ được mạnh khỏe về thể chất lẫn tinh thần. Chỉ khi nào chúng ta đi ngược lại những quy luật tự nhiên của vũ trụ thì mới dẫn đến bệnh tật. Nếu có trí tuệ thì khi ăn cơm chúng ta mới thấy được hương vị ngọt ngào của chén cơm đang ăn, có như vậy chúng ta mới dễ dàng sống một cuộc đời biết đủ và tri túc, biết bớt lo toan mà chỉ lo những gì cần lo và nhất là hãy mở rộng lòng ra với tâm độ lượng bao dung đến với tha nhân.
Thức ăn vào bao tử sau khi nghiền nát thì chất chua của gan, ngọt qua bao tử, đắng qua tim, cay qua phổi, mặn qua thận. Chúng ta ăn thật chậm nhằm nhai kỹ thức ăn, không nhổ nước bọt. Nhai kỹ là bước quan trọng đầu tiên để làm cho thức ăn nhuyễn đi hầu có thể dễ dàng hấp thụ. Bất cứ thức ăn gì cũng cần phải được tiêu hóa trong miệng, trước khi tiêu hóa ở dạ dày. Thức ăn càng được nhai kỹ thì tính dinh dưỡng của nó càng gia tăng giúp tiêu hoá dễ dàng và hấp thu tối đa chất bổ của thức ăn. Nếu biết nhai kỹ thì lượng thức ăn cần ăn sẽ được giảm đi phân nửa và cung cấp ba lần nhiều hơn linh khí prana ở thực phẩm.
Buổi sáng nước bọt chớ có nhổ đi mà hãy nuốt lấy để thấm xuống đan điền như là tạp khí, nhai kỹ để thấm đều nước bọt là giai đoạn tiêu hóa đầu tiên rất quan trọng, nhờ vậy tiêu hóa dạ dày và ruột sẽ được dễ dàng. Tuyến nước bọt nếu được kích thích tốt sẽ xuất tiết 1 lít 1 ngày, chất enzyme ptyalin và vitamin trong nước bọt sẽ ngăn tinh bột chính biến thành glucose và… Không nhai dối trong khi ăn, phải… Gạo, thực phẩm cũng tiết hết hương vị khi nhai kỹ và rau củ càng nhai càng thấy ngọt, nhai kỹ làm tiết ra nhiều nước bọt và trị được bệnh ham ăn. Vì khi ta thấy thức ăn ngon ta thường ăn nhanh và nhai dối, trường hợp này người tham ăn sẽ hiểu.
(1:10:39) Nước bọt là cam lộ, sương ngọt của trời thấm nhuần các tạng phủ nuôi dưỡng da thịt tươi tốt, nước miếng có tính chất sát khuẩn cho răng miệng, nhai là một hình thức thể dục hàm răng mặt. Nhai dối làm thức ăn khó tiêu, ứ đọng từng khối trong ruột sinh ra hơi độc làm người nóng nảy bứt rứt. Khi ăn tuyến nang tai tiết ra một chất kích thích tố famotidin, nhai lâu famotidin có đủ thì giờ ngấm qua mạch bạch huyết vào máu đến các tế bào để kích thích sự chuyển hoá. Famotidin còn kích thích hệ bạch huyết tạo nên các tế bào lympho bảo vệ cơ thể chống nhiễm khuẩn. Nếu ai nhai dối thì famotidin sẽ theo thức ăn xuống dạ dày và bị dịch vị hủy hoại. Nhai làm máu trong đầu được kích thích lưu thông, do đó não hoạt động hữu hiệu hơn, nhai kỹ làm kích thích hệ thần kinh giao cảm.
Ngồi thẳng lưng khi ăn gạt bỏ tạp niệm, lắng vào ý niệm tốt lành và cuối cùng là hãy để cho cơ thể trả lời, cơ thể biết rõ là đang cần gì. Ngăn ngừa cảm xúc mạnh, giữ gìn nguyên khí, ít nói, coi nhẹ sự thành công và thất bại, không suy nghĩ miên man trong khi ăn. Đợi đói rồi mới ăn, không ăn quá no. Đợi khát rồi mới uống, không uống quá nhiều. Từ bỏ thành kiến cho rằng ăn nhiều mới mập mạp, mà ăn uống phải vừa cho cơ thể được thảnh thơi. Thở không khí trong lành. Tập ăn hàm lượng đều đặn, ăn thực phẩm tinh khiết nhờ đó con người mới có sức khỏe và được an lành.
(1:12:20) Con người hiện tại kém thư thái và hạnh phúc hơn trước vì cuộc sống đã mất thăng bằng. Dù nền văn minh hiện tại với những tiện nghi vật chất, nhịp sống nhanh vội vã hấp tấp, cơ thể thiếu vận động, thức ăn phần nhiều là chế biến trong một môi trường ô nhiễm. Sống thuận theo nguyên lý Vũ trụ với một cơ thể quân bình, Tứ Niệm Xứ là có thể làm tiêu tan và dung hoà bất kỳ một chất độc nào. Mắt sáng song thẳng thắn, tinh tươi, ung dung, nhu thuận, cương quyết, nói năng dõng dạc, tính nết ngay thẳng, nóng giận không bận tâm, khiêm cung, sống thanh bạch tiêu dao tự tại.
(01:13:05) Như các bạn đã biết bệnh tham ăn ngon là do thói quen ăn từ muôn kiếp, ăn uống là một trong bốn thứ ham muốn nhất trên cuộc đời này. Rượu và thịt có tác dụng làm gia tăng sự thèm muốn dục vọng. Chúng ta không biết rằng bất kỳ một thức ăn ngon bổ nào cũng đều là bất tịnh, nó được tái hợp từ những chất bất tịnh. Ví dụ: con người thải ra chất phân để lâu ngày khô héo, con gà chạy đến bươi ăn rồi con chó cũng chạy tới ăn, vài ngày sau con người bắt con gà làm thịt nấu ăn. Như vậy con người ăn con gà, tức là ăn phân của chính mình qua giai đoạn gián tiếp từ con gà. Thành thử ra trên cuộc đời này con người và muôn vật đều ăn thứ bất tịnh cả nhưng qua những giai đoạn gián tiếp, có khi trực tiếp như con gà ăn trực tiếp đống phân người.
Để giảm bớt phí tổn, đồng thời làm giảm bớt chất phế thải của súc vật, các nhà sản xuất thịt tại Hoa Kỳ đã pha trộn nào là phân gà, phân heo, phân bò để làm thức ăn cho gia súc và con người mua thịt từ những gia súc này về nấu ăn, kết quả là bị nhiễm những bệnh ung thư từ các loại vi khuẩn này gây ra bệnh viêm cấp tính đường tiêu hóa khiến cho 6 triệu người bị bệnh mỗi năm và có khoảng 400 người chết. Vì tham ăn mà con người tự hủy diệt mình đến thảm thương như vậy, con người ăn thịt súc vật cũng tức là ăn phân của súc vật qua giai đoạn gián tiếp. Các bạn đừng nghĩ rằng chỉ có ăn thịt súc vật mới là ăn phân qua giai đoạn gián tiếp, mà từ rau, hoa quả cũng đều ăn phân qua gián tiếp cả. Tôi nhớ có một lần cô Minh Cảnh, bây giờ cô đã chết vì bệnh, người bạn đồng tu khuyên tôi rằng: “Nguyên Thanh đừng có ăn cà tím, người ta bón phân người đấy. ”
(01:15:06) Mà đúng thật! Gần bên thất tôi ở có một ruộng đất rộng, người ta trồng cà và bón phân rất hôi, tôi quan sát và biết được họ trộn phân người và các loại phân hỗn hợp để bón cho cây cà. Những trái cà to xanh tím trông rất ngon, vì thế các loài rau củ cũng đều là bất tịnh, nhớt nhao hôi thối cả. Nhìn một trái xoài ngon và hấp dẫn, nhưng nếu bạn nhìn sâu thêm một chút nữa bạn sẽ thấy trái xoài phải trải qua nhiều giai đoạn tuần hoàn mới có trái ngon ngọt như vậy. Nếu bây giờ ta bón phân cho cây xoài một xác người mới chết, thì rễ cây xoài sẽ bò đến hấp thụ ngay và cho ra những trái ngon ngọt hấp dẫn. Hiện bây giờ người ta trồng rau củ, hoa quả đều có bón phân hỗn hợp, trong phân hỗn hợp đó có cả phân người nữa các bạn à. Thành ra hằng ngày chúng ta ăn toàn đều là thứ bất tịnh cả, chúng được lưu chuyển tuần hoàn từ dạng này đến dạng khác, thay đổi tên họ.
Ví dụ như cây xoài mà bón phân xác người, thì người ta sẽ gọi là cây xoài chứ có bao giờ gọi là cây xoài bón xác người đâu. Hoặc là cây cà tím họ bón phân người thì người ta gọi là cây cà tím chứ có bao giờ gọi là cây cà tím bón phân người đâu. Cũng như nàng Tây Thi người đời ca tụng là đẹp, là đáng yêu mà chim gặp là chim phải sợ bay xa, cá thấy cá sợ lẩn trốn. Nên thân nàng Tây Thi chắc gì là đẹp, đáng yêu, thì làm sao chim, cá lại sợ hãi? Phải chăng sự đẹp ấy chỉ là do phần người của loài người mà thôi, cho đến thân thể hình dáng, sắc đẹp chỉ có với con mắt thường của người. Như có con chó ăn phân người chúng ta cho là bất tịnh, nhớp nhúa, bẩn thỉu, nhưng đối với con chó đó là một bữa tiệc ngon lành đầy hấp dẫn, mùi vị béo bở. Còn đối với các bậc Thánh A-la-hán, các Ngài nhìn với con mắt Tam Minh thương xót chúng ta là vô minh đang chìm nổi trong dòng đời đau khổ, lặng ngụp trong đó rồi tự cho rằng cái này ngon, cái này bổ, cái này là tôi, cái này là của tôi, nếu có ai đụng vào thì ăn thua đủ. Chúng ta vô minh điên đảo ngu si như thế đấy các bạn ạ!
(01:17:24) Khi quán thức ăn bất tịnh chúng ta thấy rõ bản chất của đời sống chẳng có gì là trong sạch thanh tịnh. Đều làm nhân, làm duyên đắp đổi cho nhau để có sự sống mà thôi. Bản chất cuộc đời bị chúng ta xé toạc ra. Ôi thật là ghê tởm! Chẳng có gì đẹp đẽ, đều là bất tịnh, hôi thối, bẩn thỉu, nhớt nhao tanh tưởi. Thấy rõ bản chất cuộc đời ta không còn muốn tham đắm nữa. Vậy mà con người vẫn lao như điên vào những bữa tiệc ăn uống thoả thích. Họ đang ăn thịt người đấy các bạn ạ!
Từ xưa đến nay có rất nhiều người hy sinh thân mạng kẻ khác để lợi ích cho chính mình. Cam tâm giết hại kẻ khác để bồi dưỡng cho bản thân mình, thế nên miếng thịt ở trong tô canh chứa chất lòng oán hận thâm sâu như biển cả, đời này qua đời khác sát hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau. Tất cả chúng sinh đều tham sống sợ chết, song con người vẫn dùng thủ đoạn áp bức để tàn sát những kẻ yếu kém hơn mình. Trong tâm thức của những con thú trước khi chết đã tiết sinh lòng oán hận rất lớn, chúng chỉ muốn tìm cách báo thù, không có cách gì để xoa dịu ý tưởng thù hận này được. Các bạn muốn biết trên thế giới nguồn gốc của chiến tranh từ đâu ra. Như chiến tranh Việt Nam đều có sự sát quá nặng, quá sâu, cho nên mới dùng phi cơ đại pháo, chiến hạm thủy lôi để hủy diệt nhau. Nếu ban đêm mình lắng nghe như nhà người đồ tể tiếng kêu la, hay tiếng của con heo, con bò, hay con dê xin cứu mạng thì mình sẽ biết được nguyên nhân của chiến tranh, núi lửa, sóng thần, động đất, lũ lụt, đói nghèo…
(01:19:07) Con người là chúng sinh, miếng thịt mình ăn cũng là chúng sinh, hễ là động vật là dê, là trâu, là gà, là ngựa, là chó, là heo, đều là một loài chúng sinh cả. Nếu có kẻ nói rằng những thứ động vật này do trời sinh ra để người ăn, như vậy thì người sinh ra để ai ăn? Bởi vậy trời sinh động vật không nhất định là để cho người ăn. Bất quá bởi vì con người ỷ mình trí óc cao minh nên mới ăn thịt động vật. Do đó sự quan hệ ăn thịt này nếu nghĩ cho kỹ thì chính là người ăn thịt người. Nếu nói rằng người ăn thịt người thì thử hỏi xem kẻ ăn thịt, tức là bây giờ đã biến thành dê, thành heo, thành lừa, đối với mình có quan hệ như thế nào?
Trong kinh có nói rằng: "Con dê trở lại biến làm người. " Con dê mà có thể biến làm người, thì tất cả động vật khác cũng có thể biến làm người, cũng như là mình cải đầu hoán diện thay đổi bộ mặt thôi, mà mình không biết loài thú vật đó là ai. Các bạn có biết chăng những thứ động vật như trâu, heo, gà, chó, không chừng đều là bà con quyến thuộc, là họ hàng thân thích của mình. Mối quan hệ đó nói xa xôi như vậy, chứ nói gần hơn thì chúng nó biết đâu chính là cha mẹ mình từ kiếp trước, hoặc là cha mẹ mình ngay kiếp này, hay là cha mẹ không biết bao nhiêu kiếp từ trước, nghĩ như vậy thì nếu ăn thịt cha mẹ thì thật là bất hiếu. Cho nên nghĩ kỹ thì mới biết rằng ăn thịt động vật chính là người ăn thịt người vậy.
Người mà ăn thịt heo, thì con heo có thể nghiệp sẽ biến thành người. Khi heo thành người nó lại ăn thịt heo do nghiệp người kia mà thành; nhân duyên cứ luân chuyển mãi, khổ … ăn thịt lẫn nhau; mình ăn nó, nó ăn mình do đó thù hận càng ngày càng sâu. Thù hận càng sâu thì càng muốn ăn thịt, thèm ăn thịt, tính thích ăn đồ ngon là do oan nghiệp dẫn dắt, làm mình cảm thấy hợp lý khi giết sinh mạng của kẻ khác để bổ trợ cho sinh mạng của chính mình.
(1:21:12) Tất cả thịt của chúng sanh đều có chất độc, chất độc này không phải một ngày, một đêm tích tụ mà thành. Cũng không phải mới một đời, một kiếp mà có, chất độc ấy tích lũy trong nhiều kiếp, từ sự hỗ tương tàn sát của người với người đã tạo thành một thứ oán độc, mà chẳng thể nào xóa bỏ được. Khi mình giết súc vật thì cũng tạo ra một thứ oán hận trong tâm chúng. Lúc gần chết vì quá khủng khiếp và sợ hãi nên chúng nảy sinh lòng thù hận muốn báo thù. Bởi vậy từ nơi lòng oán hận phẫn uất ấy phát tiết ra một độc tố thấm suốt da thịt chúng, nên hễ ai ăn thịt chúng thì giống như ăn phải chất độc vậy. Lúc ăn thì không thấy hại, nhưng dần dần sẽ mắc đủ chứng bệnh phiền toái mà chẳng có thuốc gì cứu nổi. Thời đại bây giờ thì oán khí đầy trời, oán khí đó so với đầu đạn nguyên tử thì lợi hại hơn nhiều, bởi vì nó là vô hình, vô tướng xong lại có thể tận diệt toàn thể nhân loại.
Có bài kệ:
"Thiên bách niên lai oản lý canh.
Oán thâm tự hải hận nan bình.
Dục tri thế thượng đao binh kiếp.
Thả thính đồ môn dạ bán thanh!"
Dịch nghĩa là:
"Ngàn năm oán hận ngập bát canh.
Oán sâu như biển, hận khó tan.
Muốn biết vì sao có chiến tranh,
Hãy nghe lò thịt lúc nửa đêm!"
(01:22:40) Trăm ngàn năm nay miếng thịt trong bát canh chứa đựng sự oán hận sâu như biển khó mà san bằng được. Nếu các bạn muốn biết nguyên nhân của chiến tranh, núi lửa, động đất, sóng thần, lũ lụt trên thế giới thì hãy lắng nghe tiếng kêu thảm thiết của những con vật nơi nhà kẻ đồ tể vào lúc nửa đêm. Cho nên cổ nhân nói ra bài kệ này là có nhân duyên, có căn cứ, chúng ta phải thấu triệt đạo lý đó thì mới có thể trị được bệnh tật ham ăn hốt uống của chính mình. Vì thế chúng ta nên biết đủ. Khi ăn uống chỉ vừa đủ chứ không phải thử tất cả những thức ăn dọn lên. Nếu không bám víu ham muốn quá nhiều vật chất thì cuộc đời sẽ nhẹ thênh. Ta không muốn ăn các chất độc hại, không muốn cơ thể chứa đầy những thức ăn độc hại.
Với tâm cũng thế, ta không nên nhét nhồi đầy tâm trí ta với các chuyện vô bổ độc hại. Ví dụ như hôm nào đó ta đi khất thực thấy món ăn ta hôm nay ngon quá, rồi ý thức đánh giá trị món đó là ngon, là hợp khẩu vị đối với mình, là bổ béo. Bỗng có người chê món đó là dở, có gì là ngon đâu mà phải khen. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ làm mình nổi sân lên và cãi lại rồi, phải không các bạn? Như thế ý thức của chúng ta duyên theo bóng dáng của món ăn, rồi chấp chặt vào đó, nếu ai nói khác đi là nổi giận liền. Như vậy chứng tỏ mê lầm của chúng ta quá lớn, mê lầm đó Phật gọi là vô minh. Cho nên Trưởng lão dạy chúng ta phải quán thức ăn bất tịnh để tâm khỏi phải dính mắc trong sự khen chê ngon dở của cái lưỡi đắm trong mùi vị.
Bí quyết người tu hành là nên ăn ngày một bữa. Vì sao? Vì ăn ngày một bữa thì bớt sanh dục liền. Dục nhiều ít thì có thể biết đủ là tri túc, biết đủ thì thường xuyên an lạc, luôn luôn an lạc thì không có phiền não thương ghét giận hờn, không chê cái này dở, không chê cái này ngon, không có phiền não thì bồ đề nảy sanh, bồ đề nảy sanh thì được giải thoát. Đó là những chặng đường mà người tu hành phải trải qua, mọi người hãy cùng nhau cố gắng. Cố gắng nhé!
(01:24:55) Vì do mê lầm nên chúng ta sống trong đau khổ. Phật nói thân này có sanh, già, bệnh và chết. Nếu cho nó là mình thật, đến khi nó tan hoại, tức là mình mất mình thì còn cái khổ nào bằng. Sở dĩ đức Phật và thầy Thông Lạc coi cái chết như trò chơi, vì các Ngài thấy thân là giả dối không quan trọng nên các Ngài cười trước cái chết, dù chết bằng cách nào cũng vậy. Chúng ta thì khác, vì thấy thân mình là thiệt nên nghe nói chết là đã hoảng hồn rồi. Giả sử khi đau nhiều mình cũng tỏ ra can đảm chịu đựng, tỏ ra hiểu đạo không sợ chết, nhưng trong lòng cũng thấy nao núng, như vậy để thấy mình chưa thật. Thấy thân tứ đại là giả mà thấy nó quả là thiệt nên khổ đau vì nó và mấy ai thoát khỏi mê lầm này. Thế nên người tu chúng ta phải nhận định thật đúng để không còn mê lầm nữa, hết mê lầm tức là giác ngộ, phá tan vô minh lầm chấp về thân và tâm. Phá hai chấp này rồi chúng ta mới giải thoát sanh tử, đó là mục tiêu cuối cùng của người tu.
Tất cả chúng ta đang sống khỏe mạnh, tưởng chừng như mình hiểu đạo và hành đạo được, nhưng khi ngã đau, hoặc có những điều bất trắc xảy đến thì mình cuống quýt cả lên, không còn bình tĩnh nữa. Hiểu đạo mà không dùng được, không còn tự chủ nên đau khổ. Đau khổ của chúng ta không phải ai mang đến mà chính vì vô minh mà làm mình đau khổ. Ví như đang đi trong rừng gai góc mà không khéo luồn lách nên bị gai cào xé mặt rướm máu rồi than thở cuộc đời sao quá khổ! Nếu đi trong rừng gai mà khéo luồn lách ra khỏi rừng không bị trầy da chút nào mới là giỏi, là an vui. Vậy trên đường tu chúng ta phải thấy được những điều Phật đã dạy có những điều thật hay mà chúng ta đã xem thường.
Nhìn lại thân tứ đại thấy nó quá rõ, học sinh hiểu rồi, ai cũng nói thân này giả. Tại sao? Vì mình thuộc lời Phật, lời Thầy dạy: "Thân tứ đại là giả, là vô thường, là tật bệnh. " Nếu hỏi thân này giả như thế nào? Vì thân này ngày nay còn, nhưng thời gian sau nó hoại. Thật là đúng! Vì thân này vô thường, nay còn mai mất. Lại có người nói thân này do duyên hợp nên giả. Không biết hợp là hợp cách nào mà giả là giả cách nào. Nghiền ngẫm cho kỹ chúng tôi thấy được lẽ này, xin chia sẻ cùng các bạn.
(01:27:30) Nói giả không phải đợi cho thân hoại mới nói là giả, mà ngay trong lúc mình đang ngồi, đang nói chuyện biết nó là giả. Làm sao biết được? Vì Phật dạy: "Thân này do Tứ đại đất, nước, gió, lửa hợp thành. " Chất cứng là đất, ướt là nước, động là gió, ấm là lửa, bốn chất đó hợp lại cũng chưa đủ sức tồn tại mà phải nhờ Tứ đại. Nhờ Tứ đại bên ngoài mà bồi bổ, có bồi bổ nó mới tồn tại, nếu thiếu sự bồi bổ thì nó tan hoại.
Vì vậy chúng tôi theo câu hỏi. Hiện giờ các bạn đang ngồi đây, mũi các bạn đang làm gì? Đang thở phải không. Mũi đang thở, nghĩa là chúng ta đang mượn không khí ở bên ngoài. Hít vào là mượn, thở ra là trả. Mũi cứ làm việc hít vào, trả ra đều đặn như vậy. Giả sử chúng ta trả rồi không mượn lại thì sao? Thì ngay đó là tắt thở. Như vậy đời sống của mình thật ở chỗ nào. Vậy thì ta có còn ham ăn hốt uống nữa hay không. Điều này hết sức cụ thể mà phải có lắm công phu mới nhận thấy được.
Đến mượn nước: miệng mượn một tách nước uống vào vài tiếng đồng hồ sau cũng phải trả, rồi một lát sau mượn tiếp chén cơm. Mượn nước để bồi bổ nước, mượn cơm để bồi bổ đất, trong cơm có chất nóng như gừng, tiêu, ớt để bồi bổ lửa. Như vậy chúng ta nói sống mà thật ra sống có cái gì? Cả ngày chỉ lo bồi bổ cho thân tứ đại này thôi! Chỉ có bao nhiêu việc mượn và trả mà cũng than cực. Nghĩa là làm cho có cơm ăn để mượn rồi trả, như thế cuộc sống của chúng ta chỉ là cuộc sống mượn - trả. Nếu mượn - trả được êm xuôi thì vui cười. Mượn - trả mà trục trặc thì sao? Thì chở đi cấp cứu chứ sao! Cũng giống như tôi bây giờ mượn - trả không được êm xuôi nên cổ phải viêm họng, ho mệt cả người. Đến hôm nay cũng bớt nhiều rồi là nhờ phương pháp tác ý nên bệnh có giảm.
(01:29:33) Như vậy cuộc đời của mình, hạnh phúc của mình ra sao? Nó quá tầm thường và quá mong manh! Những người tìm thức ăn ngon, nước uống bổ; tất cả những thứ đó chẳng qua là mượn trả mà thôi. Khi đi khất thực về có cơm nguội hay cơm nóng cũng tốt. Chúng ta mượn cơm để chữa bệnh đói, không nên coi đó là quan trọng hay vì đó là phiền não. Cơm nóng hay cơm nguội, thực phẩm ngon hay dở ăn vào cũng là mượn rồi trả. Có ai giữ được lâu không? Nếu ăn vào mà giữ được lâu thì chỉ có đi cấp cứu bệnh viện mà thôi. Biết được lẽ thật như vậy thì lúc nào ta cũng an vui mà biết đủ trong cuộc sống tu hành của mình. Mượn ít chén cơm để bồi đắp của mình, dù được chọn cơm ngon hay cơm nguội, thức ăn ngon hay dở, mượn rồi cũng phải trả. Có ai giữ được đâu mà quý, mà tìm, mà giận hờn nhau vì khen chê. Biết được lý mượn trả cụ thể, biết được lẽ thật đó rồi chúng ta không còn phiền não giận hờn nhau trong cách đối xử qua lại nữa. Dù cách đối xử đó hữu ý hay vô tình, niềm nở hay lạnh nhạt ta cũng không giận dữ, ta buông xả hết cho tâm thanh thản, vô sự.
Vì chấp sai lầm không thấy đúng lẽ thật nên chúng ta thương ghét giận hờn mãi rồi than thở sao ở giữa đời này khó tu quá! Không khí đang ở ngoài trong lành mượn hít vào rồi trả ra, nói cái đó là của tôi. Nước đang ở ngoài mượn uống vào một lát lại trả ra, nói cái đó là của mình. Quả thật là mê muội! Có cái gì là của mình đâu. Tất cả cuộc sống của chúng ta chỉ là chuyện mượn trả, cuối cùng một bộ phận nào đó trong cơ thể như tim, gan, phèo, phổi bị hư hỏng thì mượn không được nữa, lúc đó là vĩnh biệt ra đi. Thấy rõ như vậy chúng ta đã giải quyết bao nhiêu thứ phiền não. Trái lại chỉ nghĩ đến ăn ngon, mặc đẹp thì bao nhiêu thứ phiền não đã sinh khởi lên rồi.
(01:31:40) Tôi nhớ đến một bài kệ của một vị Thiền sư nói về mạng sống rất đơn giản, nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc vô cùng:
Mạng sống trong hơi thở
Trong nhịp đập quả tim
Thế nào là mạng sống?
Sự vay mượn liên tục.
Câu cuối của bài kệ phải công phu lắm mới thấy được lẽ đó, chứ không phải là thường. Chúng ta cứ nghĩ mình sống, chứ Không ngờ sống chỉ là sự vay mượn liên tục, còn tiếp tục vay mượn là còn sống, vay mượn ngừng lại là chết ngay. Như vậy sống bằng vay mượn làm sao gọi là sống thật, mà không thật thì đâu có gì là quan trọng. Vì cho cuộc sống là quan trọng nên chúng ta tranh giành nhau, trách cứ và giận hờn lẫn nhau rồi bị chướng ngại trên đường tu hành. Bài kệ này không phải ngẫu nhiên có mà do suy ngẫm đúng theo lời Phật dạy. Trầm ngâm rất nhiều thời giờ thì khi nói lên được điều này mới thấy cuộc đời bớt khổ. Phải hằng sống và nhớ như vậy chúng ta cũng sẽ bớt khổ rồi.
Trong kinh Phật hỏi các thầy Tỳ kheo: "Mạng sống con người là bao lâu? "
Có vị nói năm, ba tháng. Có vị nói năm, bảy ngày. Có vị nói ít tiếng đồng hồ. Có vị thưa trong một bữa ăn. Nhưng Phật đều bảo: "Các ông không thấy đạo. "
Cuối cùng có một vị Tỳ kheo thưa: "Mạng sống trong hơi thở."
Phật nói: "Ông đã thấy đạo. "
(01:33:07) Như vậy đạo là gì? Là chân lý, là lẽ thật. Thấy được lẽ thật gọi là thấy đạo, thấy đạo là giác ngộ, thấy rõ thân chúng ta là vay mượn, là tạm bợ ngắn ngủi, đó là chúng ta đã tỉnh giác. Còn thấy thân là thiệt, là lâu dài… đó là chúng ta đang mê, đang vô minh. Như người bị bệnh tim bất chợt tim ngừng đập, thì sao? Tức là chết rồi! Như vậy làm sao nói mạng sống là lâu dài bền vững được. Không mượn không khí để thở là chết, quả tim ngừng đập là chết, vậy đâu còn gì là lâu dài. Còn liên tục vay mượn không khí hít vào thở ra, quả tim còn đập không dừng, đó là sống. Cho nên nói sống là động rất là hợp lý. Động là mượn trả, dừng cái động là chết, mạng sống của mình cũng chỉ là như vậy, thế mà chúng ta cứ tưởng nó lâu dài, bền bỉ.
Sống đến 70, 80 tuổi không ngờ cái chết lúc nào cũng chực sẵn bên cạnh mình, đó là điều rất quan trọng, nhận thấy được như vậy không phải là chuyện dễ. Chúng ta thấy theo kinh Phật, hiểu theo lời Phật mà không chiêm nghiệm thì cái thấy đó không đến được lẽ thật. Vì thế Phật dạy: "Văn - Tư - Tu. " Hoặc là Trưởng lão Thông Lạc nói mình phải nghe rồi suy ngẫm cho thấm thì mình tu mới dễ, mới thành. Trưởng lão Thông Lạc nói, tức là thay Phật để nói, mà mình là học trò không chịu nghe, không chịu học, tức là ngã mạn cống cao xem thường lời Phật dạy, cho rằng chân lý này không đáng học, không đáng nghe. Vậy các bạn tu theo đạo Phật để làm gì? Điều đó các bạn nên tư duy một cách sâu sắc để tìm ra một phương hướng tu cho đời mình.
(01:34:58) Tôi nhớ có một bài kinh Nikāya và Āgama, căn bản là kinh Đảnh Lễ Sáu Phương, hay là kinh Thiện Sanh và kinh Sư Tử Hống thuộc Trường bộ kinh. Đức Phật đã dạy cho chàng thanh niên Sin-Ga-La người vừa đảnh lễ sáu phương để cầu mong được che chở, có vận may. Mười bốn điều phải thực hiện để được sáu phương che chở. Bạn có thể thành người che chở sáu phương, nhưng tôi chỉ ghi ra đây điều thứ ba để nói lên lời Phật dạy cho mối quan hệ giữa thầy và trò.
Thầy đối với trò: dạy tốt, dạy nghề cho trò để khi vào đời có thể sinh sống. Chọn bạn tốt cho trò.
Trò đối với thầy: học tốt, chăm chỉ vâng lời sự chỉ dạy của thầy, giúp đỡ thầy khi cần.
Vậy chúng ta thử xét lại mình xem đã thực hiện được điều gì chưa. Chúng ta đã học tốt, chăm chỉ vâng lời chỉ dạy của thầy chưa. Đó là câu trả lời của tự thân mỗi người tự xét lại mình, để khỏi phải hổ thẹn với lý tưởng cao đẹp mà mình đang đeo đuổi. Trưởng lão đã giảng dạy giáo lý giải thoát khổ đau của người một cách thiện xảo, đáp ứng nhiều tâm tư khác nhau trong các nguồn văn hóa khác nhau khiến mọi người đều có thể bằng nỗ lực của chính mình tìm thấy sự thanh thản, an lạc, hạnh phúc trong hiện tại, từ cấp độ tương đối đến tuyệt đối.
(01:36:28) Tôi rất cảm phục gương hạnh của Sư cô Huệ Ân, năm nay sư đã 87 tuổi rồi. Vậy mà tôi thấy Sư chưa bỏ học một lần nào. Mỗi sáng thứ hai hàng tuần Sư đều chống gậy lên lớp nghe Thầy giảng, ngồi im lặng lắng nghe từng bài của các Tu sinh. Sư đã làm cho tôi hết sức tôn kính và hoan hỷ, Sư là người lớn tuổi nhất lớp mà lại siêng năng nhất lớp. Sư già yếu, run rẩy như vậy mà Sư còn đến dự lớp học. Còn chúng ta thì sao? Hết lý do này đến lý do khác để thối khất sự học. Liệu chúng ta có sống bằng tuổi như sư Huệ Ân vậy không? Hay khi đến tuổi bằng Sư, chúng ta đi không nổi, nằm liệt giường liệt chiếu, không chừng vô thường đến 30, 40 tuổi, hay 50, 60 tuổi đã chết ngoẻo mất rồi. Mỗi lần nhìn thấy Sư chống gậy lên lớp học là mỗi lần trong tôi nhắc nhở cái vô thường đến với mình. Tôi nhìn Sư mà tôi nghĩ đến cái già nua của chính mình sau này sẽ giống như Sư vậy. Không chừng tôi có sống bằng Sư không? Tôi nghĩ chắc tôi cũng không sống thọ bằng Sư được. Sư sống đến tuổi 87 rồi là Sư có phước ghê lắm, Sư tu nhiều lắm nên mới sống an ổn như vậy. Còn chúng ta thì sao, có bằng Sư không? Vậy mà có người lại muốn nghỉ học. Nghe như vậy tôi buồn lắm! Tôi muốn các bạn đồng tu hãy cố gắng tu thật. Tôi cũng như các bạn, chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực tu tập. Bên ta luôn có thầy giỏi, bạn tốt sẽ giúp đỡ ta vượt qua những khó khăn mà mình đang vướng mắc, phải không hỡi các bạn!
(1:38:16) Nếu nghe Trưởng lão Thông Lạc dạy "thân này là giả, là bất tịnh", rồi mình học thuộc lòng, mà rốt cuộc không biết nó giả như thế nào? bất tịnh như thế nào? Chỉ nói giả, nói bất tịnh miệng thôi, chứ tâm trí mình không có gì dính dáng; hễ đụng chuyện là mình tham, sân, si nổi lên ầm ầm như sóng thần, núi lửa thì ích gì cho sự tu học của mình. Nếu mình có học, có tu, tâm trí luôn suy ngẫm thấy được tường tận lẽ thật đó là ta đã có tri kiến, là đã … được hoặc biết trí tuệ của đức Phật và của Trưởng lão Thích Thông Lạc. Biết thân là bất tịnh, là giả tạm, chúng ta không hài lòng với cái giả tạm đó mà phải cố gắng làm sao được giác ngộ và giải thoát, để rồi chỉ cho mọi người cùng giác ngộ và giải thoát như mình thì việc tu và học của mình rất có lợi ích, chứ tại sao mình lại không học? Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là cái túi đựng sách. Vì thế ta làm sao dung hòa được hai việc ấy, thì đó là chỗ nhìn đúng có chánh tri kiến của một người tu chân chính. Còn nếu nói thân bất tịnh, thân giả tạm rồi cứ ngồi hút thuốc, ca hát vui chơi, nó đã giả rồi làm gì cho lãng phí vô ích. Đó là quan niệm dại khờ, phải không?
(01:39:34 ) Bài kệ "Mạng sống trong hơi thở" đã nhắc nhở chúng ta phải nỗ lực tu và làm lợi ích cho chúng sanh. Chứ không phải biết thân là giả, là vô thường, bất tịnh rồi thở than buồn khổ, hoặc ăn chơi để chờ chết. Đó là ngu dại không đúng tinh thần của người có Chánh Kiến. Chính bản thân tôi trong lúc tu tập và nghiền ngẫm đạo lý tôi thấy được lẽ thật này và trình bày để các bạn cùng rõ, cũng là nhờ cái thân tôi có bệnh mà tôi mới thấy rõ đạo lý một cách chân thật. Có bệnh là cái khổ nhưng cũng là cái may, vì như vậy mình mới thấy được bản chất thật của đời sống là vô thường, khổ, vô ngã. Các bạn có biết cảm thọ khổ nó đánh tôi rất mạnh tưởng chừng không cầm nổi cây viết để mà viết. Nhưng nó tấn công tôi chừng nào thì tôi dựng hẳn sừng sững người lên ngồi trên ghế bắt buộc cầm cây viết để viết, chứ cơ thể tôi rất mệt mỏi rã rời lắm. Khi cái thân có bệnh nó uể oải muốn nằm thôi chứ nó không muốn làm gì cả, nhưng nếu mình theo nó thì mình sẽ là thua cuộc. Nhờ sự chỉ dạy của Trưởng lão tôi dùng pháp hướng tâm rất có hiệu quả nên bệnh có giảm một phần nào. Cũng vì có thân bệnh nên tôi mới suy ngẫm ra đạo lý này, xin chia sẻ cùng với các bạn.
Quán thực phẩm bất tịnh cho chúng ta hiểu biết một cách sâu sắc rằng hiện tại con người với lòng tham không đáy đã tiêu diệt một số động vật và thực vật mà từ xa xưa chúng là bạn của con người, đã giúp đỡ chúng ta trong những lúc khó khăn hiểm nghèo. Chúng ta đã phá hoại và làm ô nhiễm môi trường sống, làm bẩn đất, nước, không khí; lúc con người đạt tới đỉnh cao của quyền lực cũng là lúc con người lâm nguy hơn bao giờ hết. Con người tự cho mình là trung tâm vũ trụ và xem thường những giá trị luân lý tinh thần. Con người đang đối đầu với thiên nhiên khi mà con người tưởng mình có thể làm chủ của thiên nhiên. Đối lập với thiên nhiên, phá hủy môi trường sống thì con người là đang đối diện với số phận của mình. Hành tinh xanh đang hứng chịu những thảm họa tai ương của đất trời. Xã hội càng phức tạp, nhiều vấn đề mới nảy sinh làm điên đầu con người, khoa học đã bất chợt không đem lại niềm vui sống trong thanh thản, mà trái lại với tiện nghi vật chất cao độ nhưng con người không có được hạnh phúc, một hạnh phúc thật sự của an lạc hòa mình với thiên nhiên đất đá, cỏ cây và muôn loài quanh mình.
(01:42:30) Quán thực phẩm bất tịnh làm cho tâm của ta nhàm chán không còn ham muốn ăn ngon, dở. Ăn uống là một thứ ham muốn mà đạo Phật luôn luôn nhắc nhở các Phật tử. Dù là hàng xuất gia hay tại gia cần phải tu sửa hằng ngày để phá phiền não tham, sân, si. Có lòng tin dũng mãnh vào Phật pháp, thuyết nhân quả - gieo nhân nào thì chắc chắn ra quả nấy. Hiện nay các loại thịt đều độc hại vì hiện nay kỹ nghệ chăn nuôi đã dùng các loại chất hóa học làm cho phần nhiều các loại thịt bày bán trên thị trường bị nhiễm độc. Các loại thịt còn bị nhiễm độc do các độc tố tự tiết ra khi con vật sợ hãi, đau đớn và căm hờn. Các loại ngũ cốc và các loại rau, củ, quả đều có đầy đủ các chất bổ dưỡng có khả năng phòng ngừa các bệnh về tim mạch và ung thư cùng nhiều thứ bệnh khác. Ngoài ra ăn chay trường lâu trên bảy năm sẽ có sự thay đổi lớn lao về tâm thần như giảm thiểu sự nóng nảy.
Rượu và thịt có tác dụng làm gia tăng sự thèm muốn dục vọng. Không lấy cớ này hay cớ nọ để bào chữa cho thói quen từ nhỏ ăn thịt của mình. Mà phải có một ý chí thật vững vàng từ bỏ là từ bỏ, không một chút tiếc nuối như người cai rượu, cai thuốc lá, cà phê. Phải kiên nhẫn sáng suốt và nhận thức rằng dòng đời là một xâu chuỗi Nhân và Quả. Mặc dù tạo nhân ăn thực phẩm lành mạnh, không làm đau đớn các loài động vật khác, không có nhiều độc tố sẽ mang lại kết quả làm cơ thể khỏe mạnh, tinh thần vui vẻ. Tuy nhiên ảnh hưởng của những nhân chúng ta đã gây ra từ nhiều đời trước vẫn còn có thể tác động vào đời sống hiện nay, dù đã yếu đi do nhân tốt chúng ta đã tạo. Bởi vậy chúng ta đừng nghĩ rằng ăn chay chắc chắn sẽ không bị bệnh tật nữa mà sống lâu, để rồi nếu vô thường đến từ nhiều nguyên nhân sâu xa lại làm chúng ta mất niềm tin.
(01:44:32) Điều chắc chắn rõ ràng nhất là người nào ăn chay vì lòng từ bi cũng điều thấy tâm hồn trở nên an lạc, dễ dàng gần gũi thông cảm với loài vật và yêu mến thiên nhiên vô cùng. Biết tri ân cuộc sống đã đem lại hạnh phúc cho ta dù cả khổ đau, hiểu biết đưa tới chuyển hóa và thương yêu, khi có tự do thì có hạnh phúc. Mà hạnh phúc là an lạc, tự do không ràng buộc vào dục lạc tiền tài, sắc dục, danh tiếng, ẩm thực quá độ, ngủ quá nhiều, đắm say trong ngũ dục, gọi là đam mê là tự đánh mất mình. Cái vui ngũ dục rất là mong manh giống như sương mùa xuân buổi sáng long lanh trên ngọn cỏ, nhưng nắng vừa lên là đã tan rồi. Sự sống của chúng ta chẳng khác chi sương đọng trên đầu cành mới long lanh đó liền khô mất. Vì thế chúng ta hãy tìm cho được ngay tại đây và giờ phút này hạnh phúc của người giải thoát, giải thoát khỏi trần thế với bao phiền não rối rắm.
Muốn thế chúng ta hãy nuôi dưỡng thân tâm bằng cách ăn uống đúng cách và tâm cũng thế. Thức ăn của tâm qua sáu cửa: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Chúng ta phải biết chọn lọc chỉ cho đi vào hình ảnh âm thanh tư tưởng trong sáng mà thôi. Chúng ta hãy chọn con đường đi, con đường của hiểu biết và thương yêu để hướng tới. Phải biết ơn lẫn nhau và sống cùng nhau trong sự hòa hợp với tình thương, hãy cố gắng giải thoát mọi sự bám víu luyến ái của đời thường đối với tài sản, danh vọng với người thân.
Sống ở đời phải có định hướng lý tưởng mà phải có năng lực để chuyển hóa. Con người là một động vật nhưng là một động vật linh thiêng của quả đất này. Nếu sống theo bản năng thì chúng ta cũng chẳng hơn gì súc vật. Con người hơn loài thú là vì có khả năng tư duy, có trí tuệ; chuyển biến từ một người tầm thường sống theo bản năng, phản ứng một cách tầm thường trần tục để trở thành một con người cao quý là những bước đến sự giải thoát. Và việc đó cần có một năng lực, một ý chí vững mạnh, một sự quyết tâm vô bờ bến.
(01:46:46) Quán thức ăn thực phẩm bất tịnh thì chúng ta phải quán hạnh thiểu dục tri túc. Quán thực phẩm bất tịnh là mục đích diệt trừ tâm tham ăn, vì thế nó phải đi đôi với hạnh thiểu dục tri túc.
Vậy hạnh thiếu dục tri túc là gì?
Thiểu dục: là muốn ít.
Tri túc: là biết đủ.
Muốn ít là đối với cái chưa có mà vì nhu cầu mong muốn cho nó có. Như muốn có cái nhà ở vừa sạch, vừa che kín nắng mưa. Cần đi cho mau, muốn có một phương tiện giao thông gì cho tiện lợi thì cốt đỡ mỏi chân, đỡ tốn thì giờ là được, chứ không muốn một chiếc xe hơi lộng lẫy mấy trăm triệu quá sức tài chính của mình. Hoặc khi đi khất thực về có gì ăn nấy, ăn cốt là để bụng chữa bệnh đói, mượn thực phẩm nuôi thân tứ đại này để lo tu tập, chứ không phải ngon dở bổ dưỡng gì cả. Mặc dù cơm hẩm, canh rau quanh năm nhưng vẫn thấy lòng phơi phới an vui, sung sướng. Người biết đủ dù nằm trên đất vẫn an lạc. Trái lại người không biết đủ dù ở cung trời cũng không vừa ý. Biết đủ gặp hoàn cảnh nào cũng đều an phận, tùy duyên. Đối với việc ăn mặc và ở, tự thấy mình có đủ dùng rồi thì không tham cầu nhiều hơn nữa mà phải khổ sở về tinh thần.
(01:48:10) Tại sao đã quán thức ăn bất tịnh chúng ta lại phải quán thêm hạnh thiểu dục tri túc?
Vì có hạnh thiểu dục tri túc làm cho lòng tham của ta giảm bớt, chỉ cần ta nghĩ đến rằng: “Có chừng này đủ rồi. ” Là cái tham của ta giảm nhẹ bớt đi một phần nào đó. Cho nên thiểu dục tri túc phải luôn có mặt trong ta, nó đối trị mọi tâm tham, nhất là tâm tham ăn rất có hiệu quả, bạn chỉ cần khởi nghĩ là nó xuất hiện liền. Còn quán thực phẩm bất tịnh bạn phải tập trung rất cao để chờ tướng hiện ra. Ví dụ như ta đi khất thực về thấy món ăn ngon ta muốn xin thêm nữa. Ngay lúc đó ta khởi nghĩ: “Ta phải biết đủ, ăn chừng này đủ rồi. ” Là cái ý nó không bắt ta phải đi xin thêm, ngay đó cái tham ăn đã giảm bớt rồi. Do đó quán thực phẩm bất tịnh thì phải có hạnh thiểu dục tri túc kèm theo một bên như trên đã nói. Hai phương pháp này đối trị với tâm tham ăn rất có hiệu quả.
(01:49:21) Người đời thường bị năm thứ ham muốn sau đây sai khiến:
Ham muốn tiền của: người ham tiền của thì vì tiền kho bạc đống, nhà ngang dãy dọc, đất ruộng cò bay thẳng cánh cũng chưa cho là được, mà vẫn còn mong muốn được làm giàu thêm nữa.
Ham muốn sắc đẹp: người ham muốn sắc đẹp thì suốt đời rong ruổi đi tìm hoa, thấy ai có nhan sắc là mê hết, tìm cách này hay cách khác để gần gũi cho bằng được. Một khi đã thỏa mãn thì lại ruồng bỏ người đẹp này để chạy theo người đẹp khác, luôn luôn bị vật dục sai khiến mất hết cả nhân cách.
Ham muốn danh vọng: người ham muốn danh vọng thì suốt đời rong đuổi theo chức cả quyền cao tiến thăng danh tốt, họ luồn cúi hết chỗ này đến chỗ khác để mong được cái địa vị cao sang, họ lao tâm khổ trí tìm mọi cách để nắm giữ cho được cái hư danh.
Ham muốn ăn ngon: người ham muốn ăn ngon thì suốt đời lân la bên cạnh những cao lương mỹ vị, quanh quẩn bên những tiệc bàn, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon vị lạ, thế giới của họ thu hẹp lại trong những món ăn và những người bạn rượu.
Ham muốn ngủ nghỉ: người ham muốn ngủ nghỉ thì quá nửa đời mình quanh quẩn bên chiếc giường, ăn xong lại nghĩ thì đi nằm, nằm là ngủ, ngủ xong lại muốn ngủ nữa, mất cả tự chủ của mình.
(1:50:46) Tóm lại khi đã tham muốn những thứ ấy thì cuộc đời của những kẻ ham muốn kia chỉ còn thu hẹp lại trong sự ham muốn của mình và làm tôi mọi cho vật dụng mỗi ngày mỗi đêm chặt chẽ. Xét cho cùng thì những sự ham muốn trên, ngoài sự ham muốn danh vọng là do lòng kiêu căng ngã mạn, còn các thứ tham vọng khác đều do ngũ dục là động lực chính cả. Ngũ dục là: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục.
Sắc dục là gì: là nhãn căn đối với sắc trần sanh tâm tham muốn. Bên trong thì kín đáo gồm thân phận của người nam hay người nữ: mày trầm mắt phượng, môi đỏ má hồng, cao to phong độ. Bên ngoài thì y báo gồm vật dụng của thế gian: ngọc ngà châu báu vật quý, đồ cổ sắc màu lộng lẫy. Những món này đại đa số người vừa trông thấy đều sanh tâm tham ái.
Thân dục là gì: là tai nghe tiếng hay tâm sanh say đắm như tiếng ca giọng hát khúc lý câu tình âm điệu du dương, khiêu gợi tâm dục của người sanh tâm đắm nhiễm.
Hương dục là gì: là lỗ mũi khi đối với hương trần sanh tâm tham muốn như dầu thơm ngào ngạt, phấn sáp nồng nàn, những món hương trần ấy khiến cho người gửi nếm sanh tâm ưa thích đắm nhiễm mơ tưởng vớ vẩn
Vị dục là gì: là cái lưỡi đối với mùi vị sanh tâm tham đắm như mùi vị thơm tho bùi ngọt, chua chát, mặn lạt, mỡ thịt, cá tôm, chả gói nem bì, những đồ cao lương mỹ vị. Vẫn biết nhân loại đối với sự ăn uống phải cần dùng nhiều món để nuôi sống và làm việc, thế nên cả nhân loại ai cũng công nhận đó là điều cần thiết nhất. Nếu ăn uống kém, thiếu thì thân phải ốm gầy; nhưng nếu ta xem sự ăn uống như là chén thuốc để chữa bệnh đói khát mà thôi, nếu quá tham món cao lương mỹ vị, chỉ biết lo sống để mà ăn thì con người có chi là cao thượng.
Xúc dục là gì: là thân thể khi giao tiếp với xúc trần sanh tâm tham muốn. Khố vải khô sơ mặc vào mình biết nhám gọi là đắm nhiễm, chui vào mình thì biết trơn láng, gỗ chạm vào mình biết cứng, bông đụng vào mình biết mềm, những vật gì mềm mại đều sanh tâm ưa thích, những vật gì cứng nhám thì sanh lòng ghét bỏ.
Tóm lại ngũ dục làm hại cho loại người không thể kể xiết, vì ngũ dục mà sanh ra đau buồn giận dữ, vì ngũ dục mà sanh ra dối trá gian tham, vì ngũ dục mà sanh ra cạnh tranh xâu xé, nhân loại đưa nhau vào rừng tên mưa đạn. Đó là kết quả của thảm khốc của con người quá tham, không biết lập đức, lập hạnh thiểu dục và tri túc.
(01:53:43) Phương pháp đối trị lòng tham muốn quá độ là phải lập hạnh thiểu dục và tri túc. Túi tham đã không đáy thì càng tham lại thấy càng thiếu, càng khổ. Đức Phật dạy càng tham muốn càng khổ sở. Chúng ta đừng lầm tưởng rằng một khi lòng tham muốn được thỏa mãn là hết tham muốn, hễ còn củi thì lửa còn cháy. Tham muốn được toại nguyện thì tham muốn lại càng to lên, tục ngữ thường nói: "Được voi đòi tiên" là thế. Người mà lửa tham vọng mong cầu nung nấu trong lòng bao nhiêu cũng thấy mình còn thiếu thốn. Không thấy thiếu món này lại thấy thiếu món khác rồi thèm khát mãi, không lúc nào được toại trí, mà không toại trí là khổ.
Để đối trị lòng tham ăn vô độ đức Phật dạy quán thực phẩm bất tịnh để đối trị tâm thèm ăn và Phật cũng dạy chúng ta phải tri túc, tức là biết đủ. Có bao nhiêu ta hưởng bấy nhiêu, tự cho mình không còn thiếu gì nữa, đừng nhìn lên những kẻ giàu có sang trọng hơn mình, thế là biết đủ.
Trong kinh Di giáo Phật dạy: "Này các thầy Tỳ kheo, nếu các ông muốn thoát khỏi sự khổ não nên suy nghiệm hai chữ Tri Túc. Hễ biết đủ thì dù ở cảnh nào cũng yên vui, người không biết đủ tuy giàu mà nghèo; người biết đủ tuy nghèo mà giàu. Người không biết đủ thường bị năm thứ ham muốn kéo dắt làm người biết đủ thương hại. Một người trong tay thâu tóm tất cả của cải trong thế gian, với người nghèo mà không ham muốn, hai người đều giàu như nhau. " Chúng ta hãy chiêm nghiệm những lời dạy này, ý nghĩa ấy làm chủ đời ta chính là lòng ta, giàu nghèo sang hèn chỉ là vấn đề phụ thuộc, nếu ta kiềm chế được dục vọng tham muốn là ta giàu sang, nếu ta không kiềm chế được dục vọng tham muốn là ta nghèo hèn.
(01:55:46) Lòng tham muốn làm cho ta khổ bao nhiêu thì thiểu dục tri túc lại làm cho ta sung sướng bấy nhiêu, đó là lẽ đương nhiên. Nhờ ít tham dục nên con ma dục vọng thèm ăn không làm sao xui khiến được mình, nhờ biết đủ nên con quỷ tham lam thèm ăn ngon chẳng có quyền hành sai xử mình nữa. Một khi con người không còn làm nô lệ cho vật chất đê hèn nữa thì lòng người bắt đầu tự do giải thoát. Con người lúc ấy mới xứng danh là con người, mới có đủ nhân cách và không hổ thẹn với địa vị làm anh cả muôn loài. Chỉ khi ấy con người mới có thể tự cho là mình có hạnh phúc được. Và dù cho thường ngày bản thân cơm hẩm, canh rau tanh, quanh năm cứ quần thô áo vải cũng vẫn thấy lòng mình thơ thới, an vui, sung sướng.
Từ xưa đến nay không có một vị Giáo chủ nào, hiền triết nào xứng đáng với danh nghĩa ấy mà lại không khinh thường vật chất mà lại chạy theo danh vọng tiền của ăn sung mặc sướng cả. Hơn nữa nhờ hạnh thiểu dục và tri túc mà gia đình và xã hội được an vui hòa bình, không còn ai giành giật của cải, danh vọng, miếng ngon vật lạ của ai nữa. Cái lợi ích của thiểu dục tri túc thật không sao kể xiết được.
Có người lại hỏi: con người muốn tiến bộ cần phải nỗ lực, phấn đấu cạnh tranh trong tất cả mọi trường hợp. Đạo Phật lại dạy quán thức ăn bất tịnh, rồi phải sống theo hạnh thiểu dục và tri túc, như thế là chủ trương làm sao cho nhân loại thoái hoá chăng?
(01:57:29) Sau khi đã thấu triệt hạnh quán thức ăn bất tịnh, đức Phật dạy con người cần phải thiểu dục và trí túc, cốt yếu để ngăn ngừa con đường trụy lạc, chặn đứng lòng tham lam tàn ác không bờ bến của chúng sanh đang sống trong cõi đời vật dục. Chứ không phải chủ trương ngăn chặn sự phát triển con người trên đường lợi người lợi vật, ích nước ích dân. Nhận thấy tai hại lớn lao của bệnh tham lam nên đức Phật đưa ra phương thuốc công hiệu là "Muốn ít và Biết đủ" để điều trị căn bệnh ấy cho tận gốc. Phương thuốc này sẽ làm yếu dần tâm tham lam nên các mối dục vọng, tội ác dần dần tiêu diệt chỉ còn lại tấm lòng từ bi rộng rải bao la mà thôi. Một khi con người hết chạy theo dục vọng, hết đuổi bắt những hạnh phúc vật chất tạm bợ giả trá, cũng không đào bới thêm đau khổ của người khác để tìm hạnh phúc cho mình nữa thì lúc ấy hạnh phúc chân thật liền đến với họ. Như thế nghĩa là hạnh thiểu dục và tri túc bắt đầu hãm bớt tốc lực của lòng dục vọng tham lam, kế đó chặn đứng nó lại, sau hết cuộc là nó xoay chiều đổi hướng sinh tiến mãi trên con đường lành. Vậy thì hạnh "Muốn ít và Biết đủ" chẳng những không đưa con người vào đường thoái hóa, mà lại giúp cho sự tiến hóa chân thật của nhân loại. Vả lại ngày nay nhân loại đang chứng kiến một sự mất quân bình nguy hiểm giữa sự tiến hóa mau lẹ của vật chất và sự chậm tiến của tinh thần. Sự mất thăng bằng ấy có thể đưa nhân loại đến hố diệt vọng, vậy cần phải sự quân bình sự tiến hóa vật chất và tinh thần. Muốn thế chẳng có phương pháp nào hơn là tu theo hạnh "thiểu dục và tri túc".
Con người nếu biết coi thường vật chất một tí, biết sa thải bớt dục vọng một tí thì mới tiến hóa sâu thêm được về tinh thần. Sở dĩ ngày nay trên thế giới vấn đề phương diện vật chất khoa học con người có tiến triển rất nhanh, còn về phương diện tinh thần đạo đức con người tiến rất chậm, vì ít ai quan tâm lưu ý đến nó mà chỉ chạy theo vật dục. Hễ vật chất quá tiến thì tinh thần phải lùi, vật chất càng cao thì lòng tham càng nặng, càng sâu càng lớn, không biết đến lúc nào là cùng. Tai họa chiến tranh, sóng thần, núi lửa, động đất, lũ lụt, mưa axit, mưa đá ngày nay gieo rắc khắp nơi trên thế giới cũng do lòng tham không đáy của con người từ bất tri túc mà ra. Vậy quán thức ăn bất tịnh và thiểu dục tri túc là hai phương thuốc rất thần diệu cho căn bệnh trầm trọng của thế giới ngày nay, không ai có thể chối cãi được.
(02:00:14) Phần kết luận
Kẻ ngoài đời và người trong đạo muốn được hạnh phúc chân thật thì nên tu hạnh Quán thực phẩm bất tịnh và hạnh Thiểu dục tri túc. Vì sự thật những người không quá đòi hỏi về vật chất thì chẳng hề so sánh với bề trên, do đó không thấy mình yếu kém về vật chất nên ít khổ, hơn nữa họ chỉ so sánh với kẻ dưới thấy mình khá giả đầy đủ hơn nên dễ mãn nguyện. Muốn tránh khỏi các tai hại trong gia đình và ngoài xã hội, mỗi người trên thế gian này đều phải giữ thủ thường, đừng vượt quá khả năng của mình. Thế giới năm châu hiện nay muốn có hòa bình để mà hưởng lạc thú hòa bình vĩnh viễn thì cũng không ngoài hai hạnh quán hạnh thực phẩm bất tịnh và thiểu dục tri túc.
Như vậy tôi đã viết xong hai phần quán thực phẩm bất tịnh và quán thiểu dục tri túc.
21. SƯ CÔ TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI VÀ CHIA SẺ NHỮNG MẪU CHUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT
(02:01:10) Chiều hôm nay tôi nhận được một lá thư, có người muốn hỏi tôi chuyện vân du ra miền Bắc. Hỏi người miền Bắc có tốt với tôi không? Người ta có tu không, hay tập trung lại bất cứ nơi đâu để nghe ngóng các thông tin rồi bàn chuyện tào lao?
Tôi nghĩ rằng ở chỗ nào cũng vậy, có người tốt kẻ xấu, có người này người khác, chứ làm sao có người toàn thiện được phải không các bạn? Chứ làm sao có con người toàn thiện được. Cũng như bây giờ chúng ta học về nhân quả thảo mộc. Các bạn thấy mỗi loài thảo mộc có đặc tướng, đặc tính riêng biệt khác nhau. Thì người miền Bắc cũng vậy, có người này, kẻ khác chứ. Nhưng quan trọng là ở mình có đắm nhiễm và dính mắc vào những cái nghịch cảnh đó hay không. Cho nên hôm nay nhân tiện viết bài này tôi xin chia sẻ đến các bạn và cũng là câu trả lời của tôi gửi đến các bạn luôn nhé!
Có người nói năm vừa qua tuổi tôi xấu nên xảy ra nhiều chuyện không tốt. Từ lâu tôi nghĩ rằng tuổi không quan trọng mà chính hành động và tư tưởng mới quan trọng nên tôi không để ý đến tuổi, mặc dù năm nay tôi 28 tuổi. Nhưng nhiều người đã tu theo chánh pháp Nguyên Thủy rồi mà vẫn còn mê tín vào những chuyện xem ngày giờ tốt xấu, tuổi tác của mình. Có rất nhiều người lại cho đó là đúng sự thật. Nếu đúng thì chắc mỗi năm chúng ta phải tốn tiền coi lịch đàng hoàng rồi cúng sao giải hạn giống như bên Đại thừa. Đó là điều chúng tôi không chấp nhận.
(2:02:58) Cuộc đời của mỗi chúng ta đều có khi thăng khi trầm, có lúc được hanh thông, có khi gặp những điều bất hạnh. Nhưng đối với tôi, tôi không thấy có gì gọi là bất hạnh. Ở đời không thể nào chúng ta có một cuộc sống bình yên mãi, mà phải có khi lên khi xuống, như vậy cuộc đời mới có ý nghĩa và giá trị. Như khi đi qua đèo Hải Vân ở Đà Nẵng, chúng ta không buồn ngủ là nhờ đi qua đèo chúng ta nhìn từng cảnh đẹp, cảnh đẹp là do xuống dốc lên đèo. Đời chúng ta có hay đẹp cũng là nhờ như thế này như thế khác. Nếu cứ bình thường hoài thì giống như đi đường bằng phẳng như ở miền Tây, xe chạy một lúc là buồn ngủ. Như vậy không có gì gọi là bất hạnh hay xui xẻo, chẳng qua đó là nhân duyên trong cuộc đời; trong tương đối phải như vậy. Lại chính những khi thăng trầm chúng ta lại càng thấy rõ mình hơn. Khi thăng chúng ta không tự hào, không ngạo mạn, khi trầm chúng ta không buồn, không khổ. Đó là có tiến trên đường tu. Trái lại khi thăng thì hãnh diện, khi trầm thì than thở, thì thật là mình chưa làm chủ tâm mình. Thế nên những đổi thay là những cơ hội để người tu thấy rõ mình hơn, biết mình đã tiến được bước nào chưa. Nếu tiến được, đó là điều đáng mừng, nếu không, đó là điều đáng xấu hổ trên đường tu tập.
(2:04:34) Hôm nay viết về đề tài quán thực phẩm bất tịnh và quán thiểu dục tri túc, tôi nêu lên vài câu chuyện nhỏ để các bạn thấy rõ sự việc tôi nói hôm nay. Cũng là bước sang một năm mới, các bạn thấy năm xui xẻo vừa qua của tôi đã chấm dứt chưa? Thật ra ai nói tôi xui xẻo cũng được, nhưng riêng tôi, tôi thấy đó là nhân quả của mình. Tôi lại thấy mỗi năm đều có những cái hay cái dở theo nhau, như năm vừa rồi tôi ra miền Bắc, đó cũng là duyên nhân quả, chính những lúc đó tôi mới biết được lòng người như thế nào: kẻ nào chân, kẻ nào giả. Cái tu khó lắm các bạn ạ! Đụng chuyện mới biết người ta có tu hay không, chứ bình thường làm sao mình thấy được lòng người. Cũng như khi đất nước loạn lên thì có kẻ trung thần xuất hiện, khi đất nước bình an vô sự thì khó thấy bậc trung thần. Khi đất nước rối ren loạn lạc thì ai là trung thần, ai là gian thần, có thể thấy được rất dễ dàng. Như thời Tống có hai triều Nam và Bắc, lúc Quốc gia hết sức hỗn loạn thì tên gian thần Tần Cối xuất hiện. Tần Cối giết Nhạc Phi, nhưng Nhạc Phi thì lưu danh thiên cổ, còn Tần Cối thì để tiếng xấu ngàn năm. Bởi vậy lưu danh thiên cổ và lưu suốt vạn niên đều là cái tên, nhưng một là cái tên tốt, một là cái tên xấu. Cũng như đời Nam tống có ông Mang Duy Từ lúc Quốc gia hết sức hỗn loạn thì ông là người hết sức trung thành với Tống, từ đầu đến cuối ông bảo vệ Quốc gia không chịu đầu hàng, đó là một vị trung thần. Cho nên khi Quốc gia hỗn loạn mới có thể thấy xuất hiện được những bậc trung thần.
(2:06:24) Bây giờ Tu viện Chơn Như cũng vậy, khi có sóng gió thì mới biết được lòng dạ của từng con người, chính trong lúc này mới có thể thấy kẻ nào là thật tu, có xả tâm không dính mắc và kẻ nào không thật tu hay tâm còn ganh tị hẹp hòi, nhỏ mọn hơn thua, so đo tính toán danh lợi. Họ đã dùng gươm giáo bằng lời nói để gây chia rẽ phá hoại Tăng đoàn, chính những lúc ấy tôi mới thấy rõ lòng người. Tôi nghĩ họ đến Tu viện để tu tập tìm cầu giải thoát nhưng không phải vậy - họ tu bằng con đường danh lợi, ganh tị, hơn thua nhỏ mọn ích kỷ, nên mới có sóng gió Chơn Như. Sóng gió Chơn Như là một bước chuyển mình để gạn lọc những kẻ nào thật tu và những kẻ nào không thật tu. Nhờ sóng gió Chơn Như chúng ta mới biết được, hiểu rõ được lòng dạ sâu hiểm ác độc của từng người dám tự tin ta đây là đệ tử của Phật. Nhờ sóng gió Chơn Như ngày hôm nay chúng ta mới được ngồi ở đây, mới được học lớp đầu tiên mà sau 2549 năm mới được một bậc Thánh A-la-hán Trưởng lão Thông Lạc khơi sáng ngọn đèn Chánh tri kiến cho nhân loại.
(2:07:42) Sóng gió Chơn Như sẽ quét sạch những kẻ nào thêm một lần nữa muốn gây sóng gió Chơn Như sẽ bị tẫn xuất đuổi ra khỏi Tăng đoàn Nguyên Thủy ngay lập tức và Tu viện Chơn Như sẽ sáng chói huy hoàng, nhất định chánh pháp của Phật, của Trưởng lão Thông Lạc sẽ được trường tồn bất diệt. Càng gặp nhiều ác pháp gió dữ, các bạn mới thấy sức mạnh của Tu viện Chơn Như vĩ đại hơn bao giờ hết. Chánh pháp Nguyên Thủy sẽ mãi trường tồn, đạo đức nhân bản - nhân quả sẽ sáng chói huy hoàng, không ai dập tắt nó được, nó sẽ được loài người bảo vệ mãi mãi.
Khi tôi ở miền Bắc, tôi học hỏi và có thêm tư liệu về cuộc đời rất nhiều. Tôi chứng kiến được bản chất của đời sống rất thực tế, tôi luôn tri ân biết ơn và đền ơn những người đã giúp đỡ cho tôi trong lúc khó khăn ở miền Bắc. Nhất là hai cô ở phố Khâm Thiên, Văn Chương và các cô ở khu Trương Định, khu nhà lắp ráp. Khi tôi có bệnh các cô luôn ở bên tôi chăm sóc và lo lắng như là những người mẹ hiền của tôi vậy, tấm lòng của các cô thật cao quý và tôn kính biết bao! Sau đó tôi cũng được bình an trở về Tu viện. Ở đời không có … điều cần thiếu là chúng ta không bi quan khi gặp những bất hạnh, cũng như không lạc quan khi thấy những điều tốt đến với mình. Chúng ta phải luôn thấy được mình trước hoàn cảnh thuận hay nghịch, đó là chúng ta biết tu. Cái gì đúng là đúng, cái gì sai là sai, cái gì tốt là tốt, cái gì xấu là xấu, không thể che đậy, tất cả mọi sự việc thời gian sẽ trả lời. Còn nếu bây giờ minh oan thế này, thế kia thì oán hận càng sinh và cũng làm thêm cho sự việc càng xấu và đen tối hơn, phải không hỡi các bạn?
(2:09:35) Như vậy tôi đã chia sẻ sơ lược chuyện cũ của cá nhân tôi trong năm vừa rồi. Đến đây tôi đề cập đến chuyện xa hơn, đó là chuyện của đức Phật. Các bạn nghe rồi lấy đó làm gương tu học. Nếu chúng ta chỉ nhìn một chiều thì đức Phật là một đấng đại hùng đại lực, đại từ đại bi, toàn năng toàn trí. Cuộc đời của Ngài hoàn toàn không có chuyện gì đáng buồn đáng vui cả. Đó là chúng ta đang lý tưởng hoá đời sống của đức Phật, chứ thật sự không phải như thế. Chúng ta phải nhìn đức Phật qua nhiều hoàn cảnh thuận nghịch trong đời sống thực tế để xem Ngài xử sự như thế nào, rồi từ đó chúng ta thu nhặt những kinh nghiệm, hun đúc ý chí và trở thành những con người cứng cỏi, thấy rõ được lẽ thật. Nếu không nhiều khi chúng ta hay than thân trách phận, nghĩ rằng đức Phật ra đời giáo hóa, chuyển hoá, còn chúng ta sao gặp đủ mọi khó khăn.
(02:10:35) Trước tiên tôi nói những chướng ngại của đức Phật qua cái nhìn phàm phu của chúng ta, để các bạn đừng có lầm lẫn khác. Từ trước đến nay đa số người Phật tử nghĩ rằng đức Phật là một đấng tròn đầy tất cả công đức nên trên đường hoằng hóa Ngài không vấp phải chướng ngại. Vậy hôm nay chúng ta đi sâu vào vấn đề để xem đức Phật gặp vào chướng ngại nào trên đường hoằng hóa của Ngài.
Nói đến chướng ngại tôi nhớ có một bài trong kinh Tứ Thập Nhị Chương ghi lại rằng:
"Trên đường giáo hóa một hôm vào buổi sáng đức Phật một mình mang bát đi khất thực trong thôn. Tại thôn ấy có một Bà-la-môn, vì đệ tử của ông đã theo Phật quy y quá đông nên khi thấy Phật ôm bát đi khất thực ông liền đi theo sau Phật và gọi tên Phật chửi mãi. Đức Phật vẫn im lặng đi, Phật im lặng chừng nào ông càng tức chừng nấy. Đến đầu đường ông chạy đến trước chặn Phật lại ông hỏi:
- Này Sa-môn Cồ Đàm, Ngài có điếc không?
Đức Phật trả lời: Không!
- Ông không điếc thì tại sao ông không nghe tôi chửi?
Đức Phật trả lời: có nghe!
- Nghe sao ông không trả lời?
Đức Phật dùng ví dụ nói: giả như nhà ông có lễ lớn, sau buổi lễ thân nhân ra về ông đem quà tặng, nếu những người ấy không nhận thì quà đó thuộc về ai?
Người Bà-la-môn đáp: tôi tặng người ta không nhận thì thuộc về tôi chứ về ai.
Đức Phật bảo: cũng thế, ông chửi mà ta không nhận thì lời chửi đó đâu có dính dáng gì đến ta.
Người Bà-la-môn đành im lặng trở về. "
Đó là trường hợp thứ nhất, đức Phật bị người ta chửi mà vẫn điềm đạm. Khi người ấy tức quá nhịn không nổi hỏi: "Ngài có điếc không mà làm thinh? " Thì Ngài đáp là Ngài nghe. Nhưng tại sao không cãi? Vì Ngài nghe mà không nhận. Cũng như người đem quà tặng chúng ta, nếu chúng ta không nhận thì của đó đâu có dính gì tới chúng ta, và quà đó vẫn còn nguyên là của họ. Như vậy các bạn có thể lấy bài kinh này làm câu tác ý để tu học. Nếu có người chửi thì các bạn cứ lặng lẽ đi. Và khi họ hỏi tại sao không trả lời? Thì các bạn nói như thế nào? Chúng tôi thấy đây là một bài kinh mà người tu chúng ta không bao giờ quên được.
"Một lần nữa cũng trên đường giáo hóa một thôn, hôm ấy đức Phật đi khất thực một mình gặp một người Bà-la-môn khác cũng theo sau chửi Phật, chửi mãi nhưng đức Phật vẫn lặng lẽ đi không đối đáp gì cả. Ông tức quá đến đầu đường ông chặn Phật. Đức Phật dừng lại trải tọa cụ ngồi.
Ông hỏi: sa-môn Cồ đàm thua tôi chưa?
Đức Phật trả lời:
Kẻ hơn thì thêm oán
Người thua ngủ chẳng yên
Hơn, thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ. "
Như vậy các bạn thấy nếu hỏi chúng ta thua chưa? Thì chúng ta nói thế nào? Có lẽ sẽ nói: "tôi nhịn đó, chứ không phải tôi thua đâu". Ráng nhịn chứ trong lòng còn tức lắm, nghĩa là có cơ hội sẽ trả thù. Trái lại đức Phật bình tĩnh trả lời: "Kẻ hơn thì thêm oán. " Nghĩa là nếu mình hơn thì kẻ bị oán thua mình. "Người thua ngủ không yên. " Nếu nghĩ rằng mình thua thì tức ngủ không được. Các bạn nhớ lại khi nào cãi với ai mà chịu lép một vế…, khi về thất tối đó ngủ không được, cứ nhớ phải đáp câu này cho hay hơn, nghĩ hết câu này đến câu khác so sánh suy tính nên rồi mất ngủ. "Hơn, thua hai đều xả. " Xả tức bỏ; xả cả hơn, cả thua, cả hai điều ấy. "Ấy được an ổn ngủ. " Tức là an ổn ngủ một giấc thật ngon!
Như vậy sở dĩ chúng ta mất ăn mất ngủ là tại điều gì? Tại những hơn thua được mất! Khi được cũng mất ngủ, ngủ không yên, mất cũng ngủ không xong. Hơn nữa khi trở về vẫn còn hằn học nhớ mình nói câu đó hay hành động đó giỏi. Còn nếu thấy thua thì bực tức ngủ không được. Trái lại đức Phật gác ra ngoài chuyện hơn thua nên Ngài đã an ổn tự tại, không buồn, không bực. Như vậy các bạn thấy là hai lần đức Phật bị Bà-la-môn kêu tên chửi chứ không phải nói xa nói gần như chúng ta hiện nay, thế mà đức Phật vẫn thản nhiên và còn nói lên những lời nói đạo lý cho người ta thức tỉnh. Như thế người tu nếu ai chửi một câu đáp lại một câu. Đó là hay, hay dở? Được người khen, hay chê? Trái lại nếu người chửi mà chúng ta im lặng không giận không hờn, thì người ta khen, hay chê? Dĩ nhiên người ta sẽ khen: "Cô ấy thật tu, Thầy ấy thật tu!"
Chúng ta muốn tu thật chứ không ai muốn tu dối. Vậy chúng ta phải làm sao? Nên an nhiên đừng giận, đừng nóng như thế mới là thật tu và mới tăng trưởng công đức. Các bạn kiểm tra lại xem trong lúc tu tập hay làm Phật sự, tất cả chúng ta có gặp những điều như đức Phật chưa? Hình như chưa thì phải! Hiện giờ người ta tốt với chúng ta quá, nếu có ai nói gì cũng nói bóng, nói gằn chút chút thôi, chứ chưa có ai chửi thẳng vào mặt. Trong đại chúng đây các bạn thấy có huynh đệ nào gọi tên mình chửi không? Chưa có! Chỉ có gằn một chút chút thôi, hoặc hoáy nguýt, đi dậm chân, dậm cẳng thình thịch mà đã có lần muốn xắn tay áo rồi. Như vậy sức tự nhẫn đến mức nào, hẳn là bằng Trương Phi!
Tóm lại tất cả chúng ta là người tu, dầu là xuất gia hay tại gia đều muốn tăng trưởng công đức, tiêu diệt tội lỗi. Chính tội lỗi là cái chướng đưa chúng ta xuống ba đường ác. Còn công đức là duyên tốt đưa chúng ta đến giải thoát. Hai việc quá rõ ràng: một đưa lên, một kéo xuống. Có người nào tu mà nói tôi cầu xuống địa ngục không? Không, nhất định là giải thoát! Vậy điều nào kéo chúng ta xuống nhất định là phải dừng, như thế mới thực là người cầu giải thoát.
Thường mỗi khi đắp y áo đi khất thực chúng ta đọc bài kệ, tôi nhớ là trong Tỳ Ni Nhật Dụng, bài kệ Thiện Tai Giải Thoát Phục - Lành Thay Chiếc Áo Giải Thoát. Đắp y áo đi khất thực là mặc một chiếc áo giải thoát. Giải thoát tức là đi lên, thế nhưng ai động đến là nỗi sân, đó là đã phản bội với bản nguyện từ buổi đầu. Người tu là người đã nguyện bỏ hết cuộc đời thế tục cầu giải thoát, mỗi năm qua là mỗi năm bị thời gian giũa mòn mạng sống, mạng sống đã mòn mà hạnh nguyện không xong những điều hay mà lại chứa thêm những điều dở. Như vậy đời tu sẽ đi lùi chứ không tiến được. Vậy tất cả chúng ta là đệ tử Phật thì phải học gương của Phật. Tôi chỉ cần các bạn học đến mức bị người ta chửi mà vẫn điềm đạm, trả lời như đức Phật, đó cũng là quá hay rồi, như vậy là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Tôi nhắc lại gương hạnh của đức Phật rõ ràng. Nếu tất cả chúng ta quyết chí tu hành thì chúng ta phải nhớ để vươn lên noi theo con đường đi của Ngài, chứ đừng lùi lại đi lối khác. Đó là điều tôi thấy cần phải nhắc nhở. Không phải chỉ riêng cho các bạn mà mỗi bài viết của tôi là tôi đang tự nhắc nhở cho chính bản thân tôi đấy các bạn ạ! Trên đường tu lúc nào chúng ta cũng phải vươn lên chứ không dừng lại ở một chặng đường nào. Riêng tôi lâu lâu kiểm lại thấy thiên hạ sân nhiều quá tôi cũng giật mình. Người này mới nổi đốm lửa nhỏ xíu thôi, chưa phải là cây đuốc mà người khác đã vội đem gỗ tới mồi liền lên nên lửa phiền não cháy rực hoài. Như vậy con đường tu là lý tưởng chúng ta đã chọn để tiến, sao chúng ta lại phản bội nó, không giữ đúng như lời hứa ban đầu? Nhất là mỗi ngày các bạn ngồi thiền câu tác ý không rời, nhưng các bạn có rời lúc nào chưa? Hay là đến giờ ngồi thiền mới sử dụng câu tác ý? Khi xả thiền thì ném câu tác ý đâu mất, đến khi gặp phiền não bị nó trói không cắt đứt được, đó là tại quên câu tác ý, không nhắc nó sẵn cho mình nên các bạn thua trận mãi. Thế nên trên đường tu không gì hơn là chúng ta hằng nhớ bản nguyện ban đầu và ý chí khi chúng ta xuất gia. Chúng ta quyết tu thì phải quyết sửa những điều dở xấu mà Phật và Trưởng lão Thông Lạc đã chê trách và hành những điều hay mà Phật và Trưởng lão đã hành. Như vậy mới xứng đáng là đệ tử Phật, đệ tử của Trưởng lão, dù là xuất gia hay tại gia. Nếu không thì Trưởng lão dạy một đằng chúng ta làm một ngã, kết cuộc Trưởng lão đi một đường chúng ta đi một nẻo. Nếu đường Trưởng lão và Phật đi là đường giải thoát, thì đường chúng ta đi là đường trầm luân. Vì vậy chúng ta tự làm khổ mình và cũng không có lợi ích gì cho ai hết.
Hôm nay có đủ duyên tôi dẫn những câu chuyện của đức Phật để tất cả các bạn biết rõ, rồi tất cả chúng ta cùng noi gương hạnh của Phật và tiến tu để mai kia các bạn sẽ nối bước theo đức Phật và Trưởng lão không sai một bước nào, như thế mới thật là xứng đáng.
Ngày 14/01/2006.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tôi xin hết.
HẾT BĂNG