00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

LCK 052 - HẠNH KHẤT THỰC - QUÁN THÂN BẤT TỊNH (NGUYÊN THANH)

LCK 052 - HẠNH KHẤT THỰC - QUÁN THÂN BẤT TỊNH (NGUYÊN THANH)

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Ngày giảng: 09/01/2006

Thời lượng: [02:49:08]

1- CÁCH THỨC ĐI KHẤT THỰC CHO TU SINH

(00:00) Trưởng lão: Thầy xin nhắc lại, để mấy con nhớ: mấy con có thấy cái tượng mà đi khất thực không? mấy con đi khất thực đừng có ôm cái bình bát để trước bụng của mình như vậy, giống như mình đi xin, đi khất cái.

Đức Phật ôm bình bát để bên hông, một tay để như thế này, các con thấy cái tượng không? Khi mà đi khất thực, từ trong thất mình đi ra, nếu ôm cái bình bát như vậy thì mấy con sẽ bị mỏi tay lắm vì đi xa đường. Phải không?

Gần thì mấy con ôm vậy được, nhưng mà xa quá mấy con ôm vậy mỏi tay lắm, cho nên vì vậy khi đi gần tới chỗ mình khất thực thì mình mới ôm cái bình bát ra để mình khất thực.

Thường thường, người ta đi đến đoạn đường nào đó người ta mới móc cái bát ra, chứ người ta không có móc cái bát ra đi từ chỗ tịnh xá hoặc từ thất mà người ta đi, như đi từ đây mà ra chợ mình ôm cái bình bát kiểu đó, mình chịu không nổi đâu.

Người ta chỉ mang cái túi bát, bỏ bát trong cái túi, người ta đi thôi. Nhưng mà khi đến cái đoạn đường mà người ta sẽ đi khất thực, người ta móc cái bát ra, người ta ôm.

Người ta giở cái nắp ra, để mọi người đến cất bát mình, người ta chắp tay người ta xá mình thì mình đứng lại mình không đi nữa.

Người ta bỏ thực phẩm vào, người ta xá, rồi mình đứng lại. Người ta vào nhà người ta lấy cơm, lấy thực phẩm người ta đem ra bỏ trong bát, khi bỏ trong bát rồi, người ta chắp tay người ta xá mình, mình đứng lại, chứ mình chưa có vội đi.

(01:44) Mình ước nguyện cho người cúng dường cho mình, rồi mình mới bước mình đi. Mình đi đến một đoạn nữa thì có người chắp tay xá mình để xin cúng dường thì mình đứng lại mình không đi.

Chừng đó người ta sớt bát bỏ vào, rồi mình ước nguyện cho họ xong rồi thì mình lại tiếp tục mình đi, chừng nào mình thấy bát mình vừa đủ ăn thì mình đậy nắp bát mình lại và mình bỏ vào trong túi bát rồi mình mang về chứ không để cái bát ôm đi nữa.

Từ chỗ mấy con ở đi ra cái chỗ mấy con khất thực, thì mấy con sẽ ôm cái bát như vậy, mấy con đi ra tới cái chỗ khất thực.

Sau khi khất thực xong rồi, từ ở chỗ cái bàn mà mấy con khất thực, mấy con sẽ lấy bỏ vào trong bát, rồi mấy con mang mấy con đi về, khỏi ôm lần thứ hai. Nghĩa là đi ra thì mấy con ôm bát, mà đi về thì mấy con bỏ trong cái túi bát.

Vậy thì ở đây mỗi người đã có túi bát chưa?

Tu sinh: dạ chưa!,

Trưởng lão: chưa có thì mấy con phải có túi bát, chứ đi cũng ôm, về cũng ôm thì thiên hạ người ta không biết sao cái người này đi cũng ôm, về cũng ôm, đi xin gì mà sao đi xin dữ quá vậy: đi cũng xin mà về cũng xin, nó sai, không đúng.

(03:00) Cho nên Thầy thấy ở đây chúng ta chưa có đủ bát, mặc dù cư sĩ mấy con cũng đi khất thực như Tu sĩ, những người tu thì chuẩn bị, nếu mà ôm cái bát đi xin thì mặc cái áo tràng như Thầy đi xin thì cũng được nhưng không hay, không giống ngày xưa cái giáo đoàn của Phật, cho nên chúng ta đi khất thực sẽ mặc y vấn hẳn hoi đàng hoàng.

Nghĩa là ở đây mỗi người xuất gia sẽ có mỗi người một y vấn theo Nguyên Thủy, theo khất sĩ. Về màu sắc thì hiện giờ thầy sẽ chọn cho Tu sĩ chúng ta có cái màu giống nhau, đừng khác nhau. Ví dụ như người mặc màu đỏ, kẻ mặc màu vàng, nó lộn xộn, không thì người ta thấy, người này là khất sĩ, người này thì là Nguyên Thủy Nam tông, người thì mặc cái áo tràng màu lam, mà đà, đủ màu. Khi mà đi khất thực thì mình nên mặc một loạt đồ giống nhau.

Nhưng bây giờ mình chưa có đủ, thầy nghĩ bây giờ mình lo tu tập để rồi cái vấn đề giáo đoàn của mình, mình tu tập được kết quả dù là một phần hoặc là hai phần kết quả của sự tu tập. Tức là chúng ta xả được tâm, sống được đúng đức hạnh, thì lúc bấy giờ về hình thức ăn mặc, thì thầy sẽ lo lắng cho mấy con hết, chứ mấy con lo thì cũng không được.

Còn giờ đây, tất cả các hệ phái khác đều về đây tu tập với chúng ta, sau khi chúng ta đạt được kết quả, nhất là ở đây có những người tu chứng quả A La Hán, làm chủ được bốn sự sống chết, thì đó là cái tiếng nói của chúng ta. Sau đó chúng ta sẽ thành lập giáo đoàn giống như Phật ngày xưa.

(05:25) Chúng ta có y áo như thế nào cho phù hợp, vì giai đoạn chúng ta đang sống trong cái ảnh hưởng của truyền thống Đại thừa, nên chúng ta đều có cái áo tràng như thế này để chúng ta hòa hợp với cái thầy Đại thừa. Đồng thời chúng ta có y vấn, túi bát, cái bát để khi chúng ta thực hiện cái hạnh đi xin.

Còn với người cư sĩ, khi đi xin thì cũng có y vấn gọi là Bạch y, chứ không được màu vàng, mấy con cũng vấn y, để đến khi thay đổi y, cái Bạch y đó thì mấy con trở thành Tu sĩ, thì mấy con đắp y màu vàng.

Cho nên gọi là Bạch y là cái người cư sĩ như mấy con, chứ không phải mặc cái áo ngắn mà ra ôm bình bát đi khất thực, coi sao cho được. Vì vậy khi tổ chức hẳn hoi thì bên cư sĩ các con đều có bạch y, còn bên Tu sĩ thì y màu vàng thì như vậy nó mới hợp, mới đúng cách.

Nhưng cái việc này thì Thầy sẽ tổ chức, còn mấy con lo lắng thì đâu có được. Còn vấn đề mấy con có tâm nguyện xuất gia thì ráng tu giới luật cho nghiêm chỉnh, các con nghe đức Phật nói 4 tháng biệt trú, để xem giới luật đức hạnh của các con chứ không có gì.

Nếu mà giới luật của mấy con mà đã sống đúng không có vi phạm thì Phật và chúng Thánh tăng ngày xưa chấp nhận liền. Còn phạm phải thì cho dù mấy con có muốn đi nữa thì trong thời đức Phật, ông Phật cũng không dám.

Cho nên vì vậy mấy con cố gắng giữ gìn giới hạnh cho nghiêm chỉnh trong tháng thứ nhất cho đến tháng thứ 2, 4 tháng biệt trú mà. Thường thường khi muốn xuất gia theo Phật để làm người Tu sĩ thì phải 4 tháng biệt trú.

Trong khi đức Phật cho 4 tháng biệt trú thì cái vị xin đức Phật xuất gia thì 4 năm cũng chấp nhận, chứ đừng nói 4 tháng. Nhưng mà 4 tháng mà sống đúng thì cho dù 4 năm, 40 năm cũng như vậy, không có thay đổi, chấp nhận được cái hạnh rồi nên là nó không có sai.

(08:05) Vì vậy hôm nay thầy nói như vậy để mấy con cố gắng sống cho đúng phạm hạnh, để khi mình xuất gia trở thành một Tu sĩ, thì nó phải đúng cái hạnh. Nhiều khi các con còn sơ sót quá nhiều, thí dụ như một Tu sĩ mà xuất gia theo Phật mà còn nói chuyện, còn động, còn này kia nữa chưa đúng cái cách của người xuất gia.

Người xuất gia phải sống trầm lặng, đi nhẹ nhàng, không khua, không động, bước đi rất nhẹ nhàng chứ không phải đi như người lính đi (ộp ộp), hay lật đật vội vàng, chạy nhảy nó không được, phải tập cái hạnh, đúng cách của người Tu sĩ.

Cho nên giới hạnh như vậy thì mấy con phải cố gắng, người nào muốn xuất gia thì phải cố gắng mà thực hiện.

2- NGƯỜI LÃNH CHÚNG PHẢI ĐỦ TÀI, ĐỦ ĐỨC

(09:00) Trưởng lão: rong khi đó thầy nhắc nhở vấn đề người muốn xuất gia là phải như vậy. Và đồng thời, khi xuất gia thì phải có người lãnh chúng bên Ni, cho nên người đó phải có khả năng, có tài, trong có tài thì phải có đức chứ không phải chỉ có tài không thì không được. Mà tài không có đức không có thì không lãnh chúng Ni được. Cho nên con phải có tài có đức.

Tài là phải thông suốt, ví dụ như trong cái vấn đề Định Vô Lậu, triển khai tri kiến, chứng tỏ người đó phải thông suốt. Cái đức người đó phải thực hiện được, thì người đó lãnh đạo chúng Ni thay Thầy lúc Thầy có Tu viện nữ, thì người có tài có đức sẽ thay Thầy lãnh đạo chúng Ni, chăm sóc cho bên nữ, như vậy mới được.

Nhưng mà bây giờ mấy con có tài nhưng mà thiếu đức thì cũng không được, mà có đức mà mấy con thiếu tài thì mấy con không điều khiển nổi cho nên vì vậy phải đúng. Bởi vì khi mà mình có tài thì như Thầy nói ví dụ thầy Chân Quang có tài nhưng mà đức tu hành thầy chưa xong nên thầy lãnh chúng, thầy đưa một số người đi lạc đường.

Mà hầu hết một số người họ có tài nhưng mà đức tu giải thoát cuối cùng, họ chưa làm chủ được bốn chỗ: sinh, già, bệnh, chết, mà họ lãnh chúng, thì họ dẫn đi trật đường khác. Cho nên không làm chủ được 4 sự đau khổ của con người, nó lệch con đường của đạo Phật mất

Cho nên thầy muốn chọn người lãnh chúng ở bên Ni là con người trọn vẹn, đầy đủ, có tài, mà lại có đức trong đó. Tức là đức giải thoát đó!

Cho nên thầy mong rằng trong lớp chúng ta đào tạo, mấy con ráng cố gắng tu học để đủ sức đảm đương, lãnh trách nhiệm. Trong khi đó dù là số người của mình có ít đi nữa thí dụ như 10 người hay 20 người, mà nhiệm vụ người lãnh chúng phải có tài có đức như vậy mới đủ, nhiếp phục họ, mới đủ điều khiển, hướng dẫn, chứ còn nếu không thì không thể nào làm được, không thể lãnh chúng được.

(11:35) Cho nên cái khó là ở chỗ đó còn cái sự tu tập của chúng ta hiện giờ nó đang đòi hỏi chúng ta rất nhiều thời gian tập trung vào sự tu tập để chúng ta thành tựu được sự tu tập của chúng ta còn nếu không khéo thì chúng ta sẽ không thành tựu được.

3- HỌC VỀ ĐỊNH VÔ LẬU, QUÁN THÂN BẤT TỊNH

(11:55) Trưởng lão: cho nên ở đây hôm nay giờ này là giờ chúng ta đang học Định Vô Lậu và chúng ta thấy rằng trong những cái bài viết về Định Vô Lậu ở đây mục đích là học tu học để cho hiểu, hiểu để mà tu chứ không phải ở đây tài giỏi hơn thiệt với nhau đừng có nghĩ cái điều đó mà chúng ta cần hiểu khi chúng ta không hiểu thì nhờ người khác người ta hiểu hơn người ta hiểu nhiều, biết nhiều hơn.

Ví dụ nói quán thân bất tịnh thì có người viết một hai trang rồi không biết viết như thế nào nữa, nhưng có người lại viết thân bất tịnh như các con thấy đây Nguyên Thanh viết về thân bất tịnh một sấp như thế này, đọc cũng thấy mệt. Tại sao nó nói nhiều quá như vậy, tại vì nó biết cách nó nói còn mình chưa biết cách và đồng thời nói chung là dù sao đi nữa mình cũng phải có học có hiểu.

Chẳng hạn như một số kinh sách của Phật nói về thân bất tịnh rất nhiều bởi vì mục đích của đạo Phật là phải thoát ra con đường sinh tử. Nếu không quán thân bất tịnh thì chúng ta bị đắm nhiễm trong sắc dục, chúng ta không ly được mà không ly được thì con đường sinh tử vẫn còn.

Cho nên mục đích của đạo Phật là người đó phải sống thanh tịnh cả thân và tâm và trước tiên nếu chúng ta muốn thu thân tâm thanh tịnh mà chúng ta không hiểu được thân bất tịnh, thân nhơ bẩn của chúng ta thì chúng ta chấp nó sạch sẽ nên chúng ta đắm đuối mê ở trong sắc dục cho nên con đường sắc dục nó mở bày và đồng thời nó tiếp tục tái sinh luân hồi mãi mãi.

Vì vậy mà theo Thầy thiết nghĩ, trong sự học như thế này mà viết như thế này, thì nó phải có một sự hiểu biết chứ nếu không có sự hiểu biết thì chắc viết không được đâu, nó quá một sức quá nhiều.

Đầu tiên vô, quán về thân bất tịnh ta phải biết quán Đức Ly Sắc Dục. Đức Ly Sắc Dục phải biết quán, kế đó quán Hạnh Thân Bất Tịnh, cuối cùng để kết được Quán Thân Bất Tịnh thì chúng ta phải chứng kiến trên thân người chúng ta để chúng ta xả cái tâm sắc dục, tâm ái dục của chúng ta để lìa ra cho nên phải đi ba giai đoạn.

Nếu mà để giai đoạn chúng ta viết thì một bài nói về thân bất tịnh thế này thế khác rồi chúng ta hết, hết biết ở đâu mà nói, trong khi kinh sách Phật có 32 điều quán thân bất tịnh, ghê gớm lắm chứ đâu phải ít.

Mà chúng ta không học thì chúng ta cũng không biết cho nên vì vậy mà hôm nay chúng ta học để hiểu biết, hiểu biết không có nghĩa là hơn thua nhau mà hiểu biết để chúng ta áp dụng vào đời sống chúng ta để mình ly.

Khi mà chúng ta chưa hiểu thì chúng ta ly rất khó mà khi hiểu biết tự mình nghe rồi hiểu biết rồi, thì mình nhàm chán, ghê gớm, sợ hãi, trước cái tâm sắc dục của mình. Cho nên cái sự học hỏi rất cần thiết cho chúng ta hiểu biết rất nhiều về tri kiến giải thoát tức là sự hiểu biết của ý thức chúng ta.

(15:42) Hôm nay Thầy thấy là bây giờ chúng ta muốn hiểu biết thì chúng ta phải đọc mới hiểu biết còn bây giờ để đánh ra thành sách thì thời gian quá lâu. Cho nên bây giờ không biết Nguyên Thanh bị bệnh liệu có đọc nổi không? Con có đọc nổi không con? À đọc nổi thì lên đọc cho huynh đệ, chị em đều nghe qua để biết cái sự tiếp tục quán thân bất tịnh, đồng thời chúng ta còn quán về thực phẩm bất tịnh nữa. Bởi vì cái thân bất tịnh này là nuôi dưỡng cái bất tịnh bên ngoài và đồng thời chúng ta còn phải quán hạnh Tâm Từ, Tâm Bi, tâm Hỉ, Tâm Xả. Đức Từ-Bi-Hỉ-Xả.

Con lên cái ghế kia ngồi vì ở đây nhiều quá không thể đứng, quỳ mà đọc hết được những bài này.

(17:05) Cái quan trọng là cái chỗ mà chúng ta tu tập để xả tâm, chỗ mà chúng ta áp dụng vào Tứ Niệm Xứ.

Học ở đây để mà áp dụng vào Tứ Niệm Xứ để mà Ngăn ác Diệt ác Sinh thiện Tăng trưởng thiện, để mà ly dục ly ác pháp để mà diệt ngã xả tâm đó là cách thức mà chúng ta hôm nay học để mà áp dụng vào Tứ Niệm Xứ chứ không có gì khác nữa.

Nếu người nào áp dụng vào Tứ Niệm Xứ được thanh tịnh thì người ấy là người chứng đạo trước tiên mà người chứng đạo là cái người xứng đáng để lãnh chúng đó. Còn cái người nói nhiều mà không chứng đạo thì chưa xứng đáng.

4- TU SINH NGUYÊN THANH ĐỌC BÀI QUÁN THÂN BẤT TỊNH

(17:53) Tu sinh Nguyên Thanh:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy và kính thưa đại chúng!

Học trò Nguyên Thanh học lớp Chánh Kiến con xin đọc Bài số 11 chủ đề Quán Thân Bất Tịnh.

Phần Quán Thân Bất Tịnh gồm có ba phần, thứ nhất là quán Đức Ly Sắc Dục và quán Hạnh Ly Sắc Dục và cuối cùng là bài Chánh Kiến về thân người.

4-1- QUÁN ĐỨC LY SẮC DỤC

(18:33) Trong thế gian này không có ai là không tham sống. Sự tham sống này vô cùng mãnh liệt vì nó được di truyền tiếp nối từ muôn vạn thế kỷ cho đến nay. Vì tham sống nên chúng sinh tìm đủ mọi cách để được sống nên người ta bất chấp cả sự bất công phi lý và tàn nhẫn xấu xa mà mình có thể phạm đến đối với những người mà vật khác ở xung quanh.

Vì tham sống người ta đã không từ chối hiếp đáp giành giật cướp bóc đánh đập chém giết người đồng loại và có khi cả đến cả những đồng loại thân thích nữa. Tóm lại sự tham sống là một nguyên nhân chính của khổ đau, tàn phá và giết chóc. Vả lại càng tham sống bao nhiêu lại càng sợ chết bấy nhiêu, mà đã sợ chết thì không bao giờ có thể vui được. Hơn nữa có ai sợ chết mà thoát được chết đâu. Đã có sống thì khắc phải có cái trái lại là chết.

Chúng ta thấy đó lòng tham sống đem lại cho ta biết bao quả tai hại, buồn thảm và xấu xa nhưng cuộc đời thân mạng thật có quý báu, thật có xứng đáng cho chúng ta tham lam mến chuộng đến thế không? Để xét đoán đúng đánh giá trị của thân mạng, đức Phật dạy chúng ta thực hành một pháp quán, pháp quán đó được mệnh danh là Quán Đức Thân Bất Tịnh.

(20:18) Thế nào là Quán Đức Thân Bất Tịnh?

Quán Đức nghĩa là tập trung tư tưởng để quán sát cho thấu đáo, Bất Tịnh nghĩa là quan sát một cách tỉ mỉ cùng tột thân con người để nhận thấy rõ ràng nó là không trong sạch như hầu hết người đời đều lầm tưởng.

Bình thường ta ít khi để ý đến thân thể của mình một cách chi tiết, ta chỉ quan tâm nó về những nhu cầu như ăn mặc ngủ nghỉ, làm thế nào cho có sức khỏe, cho thân hình cân đối đẹp đẽ. Ta tự hào và trân quý thân ta vì dưới con mắt mọi người ta có được một cơ thể đẹp đẽ, nhan sắc. Ta nâng niu nuôi dưỡng và bảo vệ nó tối đa.

Ngược lại ta rất đau khổ và hổ thẹn khi ta có một khuyết tật nào đó trên thân như mắt lé, mũi bị gãy, hàm răng lòi xỉ, mọc lộn xộn cái thì sâu đen, cái bị sún...v. v.

Ta cảm thấy khổ tâm, mất tự tin can đảm đối diện với mọi người thế nhưng dù đẹp hay xấu thân này vẫn là bất tịnh là duyên Sanh vô thường vô ngã.

Trong quan điểm truyền thống của Phật giáo thân con người là do tứ Đại hợp thành tức là bốn yếu tố: đất- nước- gió- lửa hay còn gọi là bốn giới: Địa Giới là chất rắn là xương thịt; Thủy Giới là chất lỏng máu mủ; Hỏa Giới là sức nóng nhiệt độ; Phong Giới là sức động hơi thở

Kinh Tứ Niệm Xứ Trung bộ tập 1 đức Phật có dạy phương pháp quán sát thân tứ đại như sau: “quán từ lòng bàn chân lên đến đỉnh tóc được bao bọc bởi lớp da và chứa đầy những thứ sai biệt bất tịnh” không những thế, thân này bất tịnh ngay khi còn nằm trong bụng mẹ hấp thụ huyết khí mà sống. Sự bất tịnh và tính giả hợp của thân thể càng được biểu lộ rõ hơn mạnh mẽ hơn khi ta quán một thi thể quăng ngoài nghĩa địa.

  • Bước thứ nhất: quán thi thể trương phồng lên, thối rữa ra.

  • Bước thứ hai: quán thi thể ấy bị các loài chim và côn trùng ăn thịt.

  • Bước thứ ba: quán thi thể ấy chỉ còn lại bộ xương được kết dính với nhau nhờ vào các sợi gân.

  • Bước thứ tư: quán thi thể ấy chỉ còn lại các đốt xương trắng rời rạc theo thời gian tan hoại thành bột trắng.

Trong khi quán niệm như vậy chúng ta phải biết rõ ràng rằng: thân này tính chất này như vậy, bản tính là như vậy không vượt khỏi tính ấy. Đấy là lời khẳng định chắc thật của Thế Tôn. Thân này chịu sự chi phối của sinh, già, bệnh, chết, vì thế thời gian trôi qua thì mạng sống cũng giảm dần.

(23:25) Một thân thể mà ta yêu chuộng ngày nào giờ đây chỉ còn lại đống tro tàn, nguội lạnh, xấu đẹp, giàu nghèo sang hèn đều như thế cả.

Tuy nhiên quán thân là bất tịnh là vô thường không có nghĩa là ta bi quan về nó, bỏ rơi hay hủy diệt nó. Đức Phật không cho phép chúng ta bi quan về bất cứ một điều gì trong cuộc sống. Nếu chúng ta thấy được mặt trái của thân mà bi quan tức chúng ta tự hủy hoại thân mình, đó là đi ngược lại lý tưởng cao đẹp của Thế Tôn.

Bởi lẽ mục đích của quán thân bất tịnh là nhằm đưa con người vượt khỏi những vướng mắc, uy lụy, đau khổ, chấp trước vào thân này. Quán như vậy nhằm để đối trị lòng ham muốn sắc dục.

Tóm lại quán thân có thể được hiểu trên hai mặt: quán phần thô và quán phần tế. Quán phần thô là quán các hoạt động bên ngoài của thân như đi đứng ngồi nằm. Phần tế là quán thân này do Tứ Đại hợp thành. Được kết cấu với nhau qua các thứ bất tịnh. Do những hành động từ thân khẩu ý mà con người tạo tác nên đã sinh ra vô số con người.

Thân mạng con người gồm có hai phần phần tinh thần và phần vật chất. Phần tinh thần này cũng gọi là phần tâm thức. Thức này là nơi dung chứa tất cả nghiệp lành, tất cả nghiệp nhân lành dữ của thân - khẩu - ý trong quá khứ.

Khi con người chết thì tất cả hành động ác và thiện sẽ theo đó mà tái sinh luân hồi. Nó là chủ nhân của kiếp sống là sinh lực của loài hữu tình. Các hành động ác và thiện xen lẫn vào nhau này lẽ dĩ nhiên là không bao giờ trong sạch cả vì đó là kết tinh của nghiệp nhân, phiền não: tham- sân- si- mạn- nghi. Hễ tham- sân- si là nhiễm ô là bất tịnh, đã bất tịnh thì phải tìm bạn bất tịnh mà tiếp giao, “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”.

Các hành động thiện và ác này đi theo luật quy trình của nhân quả và để thể hiện một đời sống khác là gá vào hoặc hòa mình vào chất bất tịnh. Chất ấy tức là cái điểm hòa hợp của tinh cha huyết mẹ. Nói một cách khá rõ ràng hơn tức là cái thai mới kết tụ vậy. Mà tinh huyết là gì? Chính là hai chất hôi tanh ở trong con người, sự bất tịnh của nó khỏi không cần nói ai ai cũng đã rõ. Xem thế đủ biết cái điểm khởi đầu của một thân mạng con người từ tinh thần cho đến vật chất đều là nhiễm ô bất tịnh cả, không có gì đáng để tự hào và quý chuộng.

(26:24) Như các bạn đã biết cái thai nhi hay con người mới cấu thành là một khối hôi tanh thì nơi ở của nó cũng không trong sạch.

Kẻ xấu xa dơ bẩn thì tìm hoàn cảnh xấu xa dơ bẩn mà sống đó là một lẽ thường không có gì là khó hiểu. Nói một cách rõ ràng hơn chỗ ở của cái thai mà chúng tôi muốn nói đây tức là cái bào thai, cái bào thai không nói ai cũng biết là một cái bọc chứa đầy máu nhớt tanh hôi nhơ bẩn.

Ngay từ khi mới đầu thai cái thân này bất tịnh rồi vì nó là do hai thứ nhơ nhớp là phụ tinh và mẫu huyết mà cấu thành. Ở trạng thái đầu tiên nó chẳng khác gì một con trùng rồi dần dần lớn thành hạt đậu, rồi bằng miếng thịt nằm lẫn trong máu mê nhơ nhớt về sau nhờ sự duy trì của nghiệp thức nó thành hình người, chìm ngập trong một cái bọc đầy máu huyết.

(27:30) Cái bào thai nằm lẫn lộ và lớn dần lên trong cái bọc bé nhỏ dơ bẩn ấy như trong một cái ngục tối, nhưng trong ngục dù sao cũng còn có khoảng trống để xê dịch còn có cửa để thông hơi để ánh sáng và không khí lọt vào. Chứ trong bào thai thì cái thai phải nằm co rút lại, đắm mình trong những chất nước, máu và nhớt vô cùng hôi tanh và không có được một chút không khí hay ánh sáng mặt trời lọt vào. Cái thai phải sống trong hoàn cảnh ấy không phải chỉ một ngày một tuần hay một tháng, mà phải 9 tháng 10 ngày mới thoát ra được. Không trách gì khi mới ra chào đời nó đã khóc thét lên. Cụ Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì bảo rằng nó rằng: nó là khóc vì “nỗi thiết tha sự thế, ai bày trò bãi bể nương dâu”.

Nhưng theo chúng tôi nghĩ, nó khóc vì thiết tha sự thế vô thường thì chỉ một phần, mà nó khóc vì tủi cực, khóc để phản đối sự giam cầu quá lâu, quá tàn nhẫn, quá thiếu vệ sinh, quá mất nhân phẩm, thì đến 10 phần như thế.

Sau khi đã thoát bào thai mà chào đời bằng tiếng khóc, đứa bé bắt đầu sống một đời sống riêng biệt có đầy đủ giác quan để tiếp xúc với mọi ngoại cảnh, có đủ các bộ phận cần thiết để điều hòa cuộc sống thể xác của mình. Nhờ những thực phẩm phần nhiều cũng không được tinh khiết gì như thịt cá mà cái thân lớn dần.

(29:03) Nếu xét về sự tiêu hóa của thức ăn thì chúng ta cũng không khỏi lấy làm khó chịu. Những món ngon vật lạ mới nuốt vào thì ai cũng ưa thích nhưng khi đã nuốt vào khỏi cổ, hết một đêm đã biến thành đồ bất tịnh. Khi bài tiết ra thì không ai chịu nổi, ngay đến chủ nhân của nó. Chưa nói đâu xa, cái thân này vài ngày chưa tắm đã thấy nhơ, đã thấy bẩn thỉu. Cái miệng sáng dậy chưa súc đã nghe có mùi rồi.

Những giác quan bên ngoài và bộ phận bên trong ấy thường bài tiết những chất dơ bẩn hôi hám do đó ta phải biết rằng cái thân này không trong sạch vậy Quán Thân Bất Tịnh là quán những hình tướng không sạch sẽ mà mỗi người đều có thể nhận thấy được khi nhìn qua cái hình dáng bên ngoài của xác thân.

Trong mỗi thân xác ngoài những lỗ chân lông thường bài tiết những chất mồ hôi là những thứ nước gần giống như nước tiểu, còn có chín lỗ nữa, mỗi ngày cũng bài tiết ra nhiều chất nhơ nhớp, hôi hám gớm ghiếc. Chín lỗ ấy là: đường đại, đường tiểu, miệng, hai lỗ tai, hai lỗ mũi và hai con mắt. 9 cái lỗ này chẳng khác gì 9 cái lỗ cống. Lớn có, nhỏ có, để thải những thứ nhơ nhớp trong người ra.

Nói một cách không quá đáng thì 9 cái lỗ cống này còn nhơ bẩn hơn cả những lỗ cống ta thường thấy ở các đô thị nữa. Thật thế một lỗ cống nhơ nhất cũng chỉ chứa đựng những thứ như nước tiểu, phân, đờm, mũi, dãi, ghèn nhưng ít ra những thứ ấy cũng còn pha trộn và chảy theo với nước lã. Chứ 9 lỗ trong người chúng ta chỉ bài tiết toàn những thứ nguyên chất nói trên mà không pha trộn với thứ nước lã như ở các lỗ cống. Đó là mới nói bề ngoài.

(31:09) Về trong lại còn nhơ hơn thập phần. Khi mổ bụng một con gà, con heo, ta thấy nào bọc chứa ruột non, ruột già, tim, gan, phèo phổi, bong bóng, như thế nào thì các bộ phận trong cơ thể ta cũng chẳng khác gì thế ấy. Nhất là bộ tiêu hóa là chỗ chứa đựng đủ thứ vật thực hôi thối, đủ thứ chẳng khác gì một thùng phân. Thật đúng như bốn câu thơ của vua Trần Thái Tông nói về sự trau dồi trang sức trên thân người.

“Đầu sọ khô cài hoa giắt ngọc

Túi da hôi ướp xạ xông hương

Cắt lụa là che đậy máu tanh

Nhồi son phấn át thùng phân thúi. "

Đầu sọ khô cài hoa giắt ngọc

Tức là trên đầu ai cũng là một lớp da bao bọc xương khô, nếu lột lớp da ra thì chỉ là một cái sọ khô, thế mà trên tóc lại cài hoa giắt ngọc làm đẹp đẽ dễ coi

“Túi da hôi ướp xạ, xông hương”.

Vì mang túi da hôi hám nên kiếm xạ hương xông ướp cho thơm, để dễ ngửi một chút, đó là cách đánh lừa thiên hạ gạt lỗ mũi người. Nếu túi da mình thơm mùi hoa sen thì khỏi phải xông ướp xạ hương vì nó đã tự thơm rồi nhưng vì túi da hôi hám lên buộc lòng phải ướp thêm hương. Ví dụ như sáng ngủ thức dậy, chúng ta phải rửa mặt súc miệng đánh răng cho sạch sẽ để bớt đi cái mùi hôi thối, biết thân mình là một đẫy ra tanh hôi cho nên

“Cắt lụa là che đậy máu tanh”

Vì máu chảy ra ngoài thì có mùi tanh nên phải kiếm lụa là che đậy lại, che cho kín.

"Nhồi son phấn át mùi phân thối”.

Thân là phân thối, cần xoa son, nhồi phấn để che khuất cho dễ coi. Đọc đoạn này chúng ta mới cảm nhận được tinh thần của vua Trần Thái Tông. Trong triều đình nhất là trong thâm cung có biết bao nàng cung phi mỹ nữ trang sức lộng lẫy: nào là cài hoa dấp ngọc, ướp xạ xông hương, nào là mặc lụa là rồi son phấn. Thế mà vua Trần Thái Tông thấy tận gốc chỉ là đầu sọ khô, túi da nhớt, máu tanh hôi, thùng phân thối chứ không có gì là đẹp đẽ mỹ miều. Thấy hiểu như vậy Ngài có còn đắm mê những thứ giả dối đó hay không, chắc là Ngài đã chán đã tởm lắm rồi.

So với chúng ta ngày nay nào thì những thứ trong trang sức đẹp đẽ, kiếm những hương thơm để xông ướp thật là quá mê muội. Những thứ trang sức đều là che đậy thân nhớp nhơ hôi thối không có gì là quý. Biết rõ bản chất thân người dơ xấu gớm ghê như vậy, phải tìm cách che đậy nó lại, sao không biết khổ thẹn lại còn tự hào yêu mến nó nữa. Thật mê lầm quá đáng.

Đọc bốn câu thơ này chúng ta thấy Ngài Trần Thái Tông, tuy là vua ngồi trên ngai vàng mà Ngài có cái nhìn tường tận về bản chất con người không bị những tài sắc danh lợi quyến rũ để đến phải mờ mịt như những vị vua khác.

(34:42) Thân chúng ta cũng giống như con rối vậy, nghĩa là thân này còn tinh thần nương tựa vào thì nó còn nhảy múa làm đủ động tác, đến khi tinh thần rời ra thì thể xác cứng đờ như một khúc gỗ không có nghĩa gì.

Cuộc sống lăng xăng của chúng ta chẳng qua là do duyên hợp của cơ thể giống như cái máy: khi ấn nút thì chạy nhảy lăng xăng khi buông nút thì dừng lại. Thân chúng ta là kết tụ của cả thể xác lẫn tinh thần làm tất cả các hoạt động. Khi tinh thần rời thể xác lúc đó như khúc cây khô không có nghĩa lý gì.

Thân này còn gọi là cơ thể tức là máy thân hoạt động như một cái máy vậy. Thí dụ như máy xe cần có xăng nhớt mới chạy được, không đòi hỏi loại xăng nhớt hảo hạng, máy thân của chúng ta cũng vậy: khi bao tử trống hoạt động không nổi, lúc đó chỉ cần vài chén cơm hay một khúc bánh mì bỏ vào bao tử là máy chạy rồi, giả sử như cơm nguội hay bánh mì khô cũng được không đòi hỏi phải có thức ăn thơm ngon bao tử mới chấp nhận. Sở dĩ chúng ta cực khổ làm thức ăn ngon đủ mùi vị là do cái lưỡi. Đó chẳng qua là thỏa mãn cái cảm giác nhỏ mọn tầm thường chứ không phải là điều cần thiết.

Chúng ta tính toán lăng xăng, tất cả đều do lục tập công phá. Lục tập tức là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi tiếp xúc với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nên sinh ra ưa thích. Như mắt thích sắc đẹp, tai thích tiếng hay, mũi thích mùi thơm, lưỡi thích vị ngon, nên các lo toan tính toán hàng ngày của chúng ta đều do sáu tên giặc này phá phách, không cho chúng ta yên ổn.

Trọn ngày chúng ta cứ mong cầu hết điều này điều khác, mong cầu nhiều mà chưa được toại nguyện bao nhiêu, nên tối ngủ những điều mơ ước biến thành cảnh mộng. Cả ngày chỉ lo đua chạy theo những chuyện tầm thường nhỏ mọn rồi cam chịu sự buộc ràng của danh lợi chứ có ích gì. Cả ngày chỉ lo có bao nhiêu việc đó mà quên đi cái già, bệnh, chết đã chờ trực một bên mình.

Nghiệp xấu chứa chấp nhiều như giếng sâu bao nhiêu cũng chưa đầy, không nhớ trên đầu tóc đã bạc như sương tức là cái già đã đến, mà chỉ nhớ tạo nghiệp thôi. Tất cả chúng ta thấy cái mê muội của con người thật quá lắm, già chết đuổi khắp bên mình mà không bao giờ thức tỉnh, chỉ tạo nghiệp mãi mãi không dừng, đến khi gặp cơn bệnh nặng nằm liệt trên giường không thể tới lui đi đứng được nữa, mới biết “trăm năm chọn về mộng lớn”, những tưởng tuổi thọ được trăm năm nhưng khi sắp chết ôn lại cuộc đời giống như giấc mộng đêm qua. Những gì mình đã tạo: bao nhiêu danh lợi, bao nhiêu thân bằng quyến thuộc, khi sắp lâm chung nhớ lại đâu còn gì, chẳng qua là một giấc mộng lớn mà thôi.

(38:03) Đó là mới nói khi lành bệnh, còn khi đau ốm lại còn càng nghĩ sợ hơn. Nào đàm (đờm), nào mũi chảy, lò thò, nước mũi xanh, nước mũi trắng, nước mũi đặc xanh, thối tha, tanh hôi, không sao chịu được, nhất là gặp những bệnh nan y như lao, cùi, giang mai, hoa liễu, sida, viêm gan B thì thật không ai dám lại gần.

Đó là khi còn trẻ thân xác còn đang mạnh khỏe, cường tráng, còn khi về già, đầu bạc, răng long, lưng còng, da nhăn má tóp, đi đứng yếu ớt không đủ sức để sửa soạn bề ngoài, thì càng nhớp nhúa hơn nữa. Khi già nua đau ốm, thân xác không tự làm chủ được nữa, thì những lỗ ấy tự động phát xuất hay tự do để cho các thứ nhơ bẩn trong người chảy ra thì lại càng ghê gớm hơn nữa.

Những lúc ấy thì những nguyên chất nói trên lại càng hôi hám, ung độc không khí một cách gay gắt, khó thở hơn nữa, khi cơn bệnh nặng tim gan hành hạ sát thân đau đớn nhức nhối dường như oán thù muốn cắt bỏ nó đi. Thân thể gầy ốm nằm liệt giường giống như quỷ đói, lại đi hỏi thầy bùa, thầy pháp cầu cho hết bệnh. Phải làm bò, làm trâu, làm heo, cúng thì họ sẽ chỉ cho.

Muốn được sống dai lại còn giết hại sinh mạng của chúng sanh thì đó là điều rất trái với lẽ thật. Chỉ mong đời sống của mình bền vững lâu dài như cây tùng, cây bách sẽ xanh tươi mãi mãi. Đâu ngờ thân thể khi sắp tàn ví tựa nhà siêu, chỉ một cơn gió nhẹ thổi qua cũng đủ sập rồi. Khi tắt thở những hành động đã tạo đi về cõi ác bởi vì khi sống không tạo duyên lành, không tạo nghiệp tốt, nên khi chết phải đi vào cõi ác hay cõi địa ngục.

(39:59) Khi đã tắt thở hành động nghiệp thì đi tái sinh rồi, thi hài vẫn còn ở nhân gian. Chất cứng như: tóc, lông, răng móng, chưa kịp đi tiêu; còn các chất nước như đàm, dãi, máu me thì chảy ra trước. Nếu thân chết chưa kịp chôn thì sẽ vữa nát, máu mủ chảy trào hôi hám, xông trời, xông đất, ai đi qua cũng phải bịt mũi đi mau. Da đen nám chẳng dám nhìn, xanh bầm thật đáng sợ.

Đến khi chết, nghiệp thức không còn để duy trì để thay lớp đổi mới lớp cũ, thì da thịt rã rời, đụng đâu lìa đấy. Nếu không đem chôn cất cho kín thì ruồi bọ, dòi rúc rỉa, mùi hôi thối xông lên không ai chịu nổi. Giả sử sắc đẹp như Tây Thi, tựa như Dương Quý Phi hay Đát Kỷ mà nằm chết năm ba hôm chưa chôn cũng chỉ là một cái thây ma hôi thối. Khi sống dường như thân ruột rà vậy mà lúc chết lại sợ không dám lại gần nhìn kỹ, như vậy tình nghĩa gì, chỉ là tạm bợ mà thôi.

Dù giàu hay nghèo ai ai cũng chết, nếu để trong nhà thì dòi đục, vi khuẩn xâm. Nếu bỏ ra ngoài đường thì quạ ăn, chó xé, không còn thây. Mùi hôi thối xông lên người đi ngang chịu không nổi phải bịt mũi. Con cái hiếu thảo thương xót kiếm nện chiếu quấn kỹ, che kín lại, khi chôn cất xong thì đêm đêm thấy lửa ma chơi lốm đốm nơi hoang dã. Mồ mả để mặc nằm đó không ai lui tới nữa, một năm trở lại mới viếng thăm mồ mả một lần. Đó là con cái thương tình hiếu đễ với cha mẹ lắm rồi đó.

Khi xưa tóc đen, má ửng hồng- ngày nay thì xương trắng trơ đen. Xưa nay khác nhau biết là bao nhiêu! Nấm mồ nằm giữa đồng hoang ngập nước, mưa rơi như lệ thì mây sầu buồn thảm vô cùng. Khi gió buồn thổi thì trăng sáng hắt hiu hiu cô quạnh. Khi sống con cháu đầy nhà, chết rồi ra nằm ngoài đồng vắng một mình không ai lai vãng ngó ngàng, phó cho gió táp mưa sa phủ xuống. Khi đêm vắng nghe những âm thanh buồn bã như tiếng quỷ khóc thần sầu.

Trải qua nhiều năm tháng, mồ mả bị ngựa giày trâu đạp vì các chú mục đồng thả trâu đi ăn trong đám mộ trong đám cỏ xanh rậm rạp. Chỉ thấy lửa đom đóm chớp chớp lập lòe hoặc nghe tiếng dế âm ỉ nỉ non dưới hàng dương liễu. Tấm bia ghi họ tên người mất lâu ngày bị chìm hết phân nửa dưới đất phân nửa trên còn lại bị rêu xanh che phủ các chú tiều phu vạch cỏ đi dặm mãi thành lối mòn cho người qua lại.

Dù cho văn chương hay tái thế ai nghe cũng quý cũng trọng, dù cho sắc đẹp nghiêng thành ai nhìn cũng mến cũng yêu, nhưng rốt cuộc rồi cũng đi đâu mất, cuối cùng cũng chỉ đi đến cái chết không có con đường nào khác nữa.

Vậy cái thân này quả thật là bất tịnh không còn chối cãi vào đâu được nhưng người đời vì không xét kỹ nên mới yêu quý nó, cung dưỡng nó đủ điều. Hễ thân ưa nhìn thì mình ưa thân ghét nhìn thì mình ghét, làm nô lệ cho thân. Gây nghiệp bao đời đời kiếp kiếp không dứt, cũng vì thân mà tham, sân, si nổi lên, cũng vì thân mà giết hại chúng sanh, trộm cướp, dâm dục, cũng vì thân mà nói láo, nói lời thêu dệt, nói lời chia rẽ, nói lời hung dữ. Trong ngàn vạn điều lỗi lầm cũng vì quá cung dưỡng cái thân này mà tạo thành ra ác nghiệp tội lỗi .

(43:54) Như các bạn đã biết theo như Nho giáo thì cho rằng trách nhiệm lớn lao của người con hiếu là nuôi dưỡng cha mẹ, kế tục sự nghiệp gia đình. Bây giờ chúng ta đi tu là bỏ cha mẹ, bỏ quyến thuộc bạn bè, đối với quốc gia chúng ta không phải là tôi chung, đối với gia đình không sinh con đẻ cái nối nghiệp, bỏ lìa tất cả để cạo tóc theo thầy học đạo. Tức là chúng ta không muốn làm theo hạnh nghiệp thế gian, mà muốn cái siêu xuất thế gian.

Nhưng vào chùa một thời gian chúng ta lại đi kết tình chị em với người này, kết tình cha mẹ với người kia, buông cái này, bắt cái kia, bỏ cha mẹ ruột để kết tình cha mẹ nuôi với thí chủ. Như vậy xuất gia để cầu cái gì? có phải cầu luân hồi hay không? có người lại đi xin một đứa nhỏ về nuôi làm con, thật vô lý làm sao! Cha mẹ đã không nuôi, con không sinh, lại đi nuôi con của người rồi xưng làm con mình, tình chân chính với cha mẹ đã giảm, cắt đứt lại đi kết ái từ đâu đâu. Thành ra vào chùa một thời gian lại trở thành thế tục.

Như vậy thật là phản bội với ý nguyện xuất gia của mình, phản bội lại lý tưởng cao siêu giải thoát. Mà cái sai lầm này hầu như đầy khắp các cửa chùa, đó là cái vô minh từ vô thỉ đến giờ. Nó đang che mờ chúng ta.

Đã biết cuộc đời là vô thường, thân là bất tịnh, hôi thối. Ái là gốc luân hồi sinh tử, tại sao vô chùa lại cột thêm dây ái khác, để rồi cũng buồn thảm khóc than như huynh đệ lâu lâu gặp nhau cũng khóc, nuôi con người ta có bệnh mình cũng khóc, cứ như vậy ngày qua tháng lại thì tu được cái gì? giải thoát chỗ nào mà dám xưng ta đây là Phật tử! Lại là người xuất gia dạy đạo giải thoát trong khi mình đang bị cột trong hàng trăm mối phiền não. Các bạn hãy nhận thức kỹ điều này! Đừng phản bội lại lý tưởng siêu xuất của mình. Đã quyết theo Thầy học đạo thì phải làm sao cho xứng đáng.

Đối với đại chúng phải sống theo tinh thần Lục hòa. Sống Lục hòa mới đúng tư cách của người xuất gia. Bây giờ chúng ta xét lại coi có mấy ai được như thế. Bên trong thì tính đủ chuyện lăng xăng là đã mất trách nhiệm (46;33), còn bên ngoài chỉ hai huynh đệ ở chung nhau cũng không hòa. Như vậy thì đâu còn là “vô tranh” nữa mà là “hữu tranh” rồi.

Trong loạn tưởng mà đấu tranh, sống như thế thì đạo lý ở chỗ nào? Thế nên người xuất gia chúng ta phải nhớ bên trong sống không sao lẵng pháp tu, bên ngoài sống đúng Lục hòa, được như vậy thì tăng đoàn mới vững mạnh lâu dài mà đời tu của mình mới có ý nghĩa.

(47:00) Chỉ một câu này thôi

Ngoại phần bất chánh tri đức

Tức là bên ngoài mở rộng đức không tranh, câu này cũng quá đầy đủ cho chúng ta tu hành. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng mạng người trong hơi thở, thì có gì đâu mà tranh nhau, chuyện gì cũng nên xí xóa cho nhau để tu. Thời gian đâu có đợi, mà để ở đó tranh hơn thua, thế mới là người thức tỉnh.

Còn ngược lại ở trong chùa mà người ta nói hơn một tiếng cũng không được, thấy ai hành động có vẻ khinh mình là không ưa, cứ chống chọi nhau hết cả thời giờ, tuy mang hình thức vào chùa tu mà tâm niệm hoàn toàn thế tục. Tu hành lơ láo như thế thì dù 100 năm cũng chẳng ra gì phải không hỡi các bạn?

Những gì chúng tôi nói trên đây không phải là quá đáng. Nếu bình tâm mà xét lại chúng ta phải thấy cuộc đời là vô thường, già bệnh, chẳng hẹn cùng ai, sáng còn tối mất, chỉ trong khoảng sắc na là qua đời khác. Ví như sương của mùa xuân mới sáng sớm phút chốc liền tan, cây trong bờ vực, dây trong miệng giếng, há được lâu bền. Niệm niệm qua nhanh chỉ trong khoảng sát na chuyển hơi thở đã là đời sau, sao lại an nhiên để ngày tháng trôi suông vô ích?

Thân thể thì bất tịnh hôi hám bẩn thỉu nhưng ít khi chúng ta thừa nhận như thế vì từ lâu bao đời bao kiếp, với bản tánh mê chấp, với tâm tham lắm nên tri kiến chúng ta như có một lớp màng nhung lụa phủ ngang, nên ta trông cái gì cũng thấy đẹp. Và cho đến một ngày kia bức màn ấy bị thời gian xé toang, sự thật xấu xa dù có bày ra lộ liễu trước mắt, chúng ta cũng bàng hoàng không cho là thật. Vì thế cho nên muốn thành công và nhàm chán cái thân này, phải quán tưởng nhiều lần từ ngày này sang ngày khác, cho đến khi nào nhận thấy rõ ràng thân này quả thật là bất tịnh mới thôi.

Để kết thúc phần này bước sang phần quán Hạnh Thân Bất Tịnh chúng tôi xin chia sẻ đến với các bạn về cái “tâm ngu có học”.

(49:25) Như các bạn đã biết tâm siêu việt đã mở mang bởi đức Phật không bị giới hạn vào giác quan, dữ kiện, mà vượt qua cái vật lý vướng mắc trong cái phạm vi giới hạn của sự nhận thức tương đối. Trí thông minh của con người trái lại hoạt động trên cơ sở thông tin nó thu thập và tàng trữ, ở bất cứ lĩnh vực tôn giáo, triết lý, triết học, khoa học hay nghệ thuật nào. Thông tin cho Tâm được thu thập qua các giác quan, giác quan này thấp kém trong nhiều đường lối. Thông tin giới hạn nhận được làm sự hiểu biết của chúng ta về thế giới bị bóp méo.

Trong cuốn sách “Ngu có học” một tác giả người Pháp có tên là (không nghe rõ) đã nhận định: “Tất cả kiến thức khoác lác của chúng ta căn cứ trên giác quan quả thật là ngu dốt, mà kiến thức thực sự chỉ có thể đạt được bằng cách lột bỏ hết tất cả những điều này, cho đến khi chúng ta suy nghĩ mà không sử dụng ý kiến giác quan”.

Chân lý không lệ thuộc vào những vấn đề bên ngoài mà chính trong phạm vi chúng ta. Chúng ta không thể hy vọng tìm chân lý bằng thử nghiệm và nhận thức giác quan và cả đến lý luận và lý lẽ. Có những dụng cụ đạt kiến thức nhưng không phải là chân lý. Chân lý phải đến từ sự nhận thức bên trong. Sách vở chỉ có thể kích thích tư tưởng và cho bạn kiến thức còn để tìm kiếm chân lý, bạn phải quay vào bên trong, trong phạm vi của bạn. Cho nên sự tìm kiếm kiến thức là một việc và sự tìm kiếm chân lý là một việc khác.

(51:05) Lời nói là sản phẩm của trí óc có giới hạn và tất cả kiến thức của tâm chúng ta tùy thuộc vào kinh nghiệm của giác quan. Những giác quan này đôi khi không tin tưởng được, một việc xảy ra chứng kiến bởi nhiều người có thể giải thích nhiều cách khác nhau. Một số người hãnh diện về việc họ biết rất nhiều, thực ra chúng ta càng biết ít bao nhiêu chúng ta càng chắc chắn vào sự giải thích của chúng ta bấy nhiêu. Chúng ta càng biết bao nhiêu chúng ta càng nhận thức giới hạn của chúng ta bấy nhiêu.

Một học giả xuất sắc viết một tác phẩm mà ông coi là một công trình kiệt tác ông cảm thấy cuốn sách của ông chứa tất cả những hạt ngọc văn chương và triết lý. Rất hãnh diện về thành quả của mình, ông đưa tác phẩm cho một người bạn đồng nghiệp của mình, vị này cũng là một học giả nổi tiếng như ông và yêu cầu người đồng nghiệp hiệu đính lại cho ông.

Thay vì chỉnh lại, người bạn đồng nghiệp yêu cầu tác giả viết xuống giấy tất cả những gì ông biết và tất cả những gì ông không biết. Tác giả ngồi xuống và bắt đầu suy nghĩ nhưng sau một hồi lâu ông không thể viết được gì về những điều ông biết. Ông bèn quay về với câu hỏi thứ Hai và cũng vậy ông cũng không thể viết gì về những điều ông không biết. Cuối cùng khi cái tôi của ông đã hạ xuống ông đầu hàng và biết rằng tất cả những gì ông biết thực ra chỉ là ngu ngốc.

Về phương diện này (Tên nước ngoài) ret to ben nhà triết học người Ai-Len nổi tiếng thời cổ đại đã nói như sau khi được hỏi về những điều ông biết, “Tôi chỉ biết một điều đó là điều tôi không biết”. Tôi xin kết luận bài viết tại đây, tôi và bạn hãy cùng suy ngẫm lại câu chuyện này.

Thân mến kính chào các bạn, chúng ta sẽ bước sang phần thứ hai - Quán Hạnh Thân Bất Tịnh.

4-2- QUÁN HẠNH THÂN BẤT TỊNH

(53:08) Học theo Phật pháp thì càng học càng phải thông minh mới có được cơ hội khai ngộ chẳng thể càng học càng ngu si đi sao? Học lâu mà trí tuệ không tăng trưởng lại còn hồ đồ thêm chẳng hiểu như thế nào là chánh pháp hay tà Pháp? Tại sao có tình trạng đó? lý do vì không chịu nghiên cứu đến tận cùng.

Nghe xong Phật pháp thì chúng ta phải thực hành một cách thực tiễn: “Y giáo phụng hành, y pháp tu hành” chẳng phải nghe xong kinh thì mang kinh cất trên kệ sách rồi chẳng kể đến kinh nữa. Đạo lý nghe xong phải nên tha thiết tự hỏi chính mình, có noi theo được đạo lý đó hay không? Học Phật pháp như vậy mới không uổng công tu, mới không lãng phí thời gian quý báu.

Người xưa nói “lời nói là pháp, việc làm là đạo” còn nói rằng: nói cho tốt, nói cho hay mà chẳng thực hành thì chẳng phải đạo. Lại có câu “đạo là hành, chẳng hành đạo chẳng có lợi ích” “Đức là lập thành, chẳng lập đâu còn Đức”. Trời giá lạnh như thế này, để đến giảng Phật pháp, để nghe Phật pháp thế tất phải thực hành một cách thực tiễn mới gọi là nghe pháp. Nếu không nghe được bao nhiêu Kinh bao nhiêu Pháp đều thành vô dụng. Về điểm này mong các bạn nghe hiểu một cách sâu xa hơn.

Hàng ngày chúng ta cùng nhau nghiên cứu Phật pháp thì ai cũng đều có chỗ tâm đắc nhưng nếu không thực hành thì cũng là thành vô dụng. Sau khi nghiên cứu mình phải theo đó tu hành phải thực hành với chân đạp trên mặt đất vững chắc thì mới có sự thọ dụng. Nếu mình không thực hành chỉ nói suông thì mình cũng giống như người đá với Phật pháp chẳng hữu ích được bao nhiêu cả.

(55:01) Khi “tri hành hợp nhất”- biết và làm là một thì sự tu hành của mình nhất định sẽ thành tựu. Yêu ma quỷ quái chỉ nghe tiếng là đầu hàng ngay. Vì sao vậy? bởi vì các bạn có tri kiến chân chánh, nhận thức được sự lý thật giả, biết được việc nào nên làm và việc gì không nên làm. Các bạn cần phải nhận thức rõ ràng và hiểu thấu suốt không làm chuyện điên đảo, không có mọi phiền não rắc rối, thì mới có thể nói là đạt đến cảnh giới tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.

Do đó các bạn nếu biết được một chút gì thì hãy tu hành một chút, bởi tích tiểu thành đa, góp gió thành bão. Từ một chút mà tích lũy dần thì sẽ thành nhiều ví như đống cát cũng có lúc dồn thành ngọn núi, công phu đã đầy đủ thì tự nhiên sẽ thành công. Chúng ta được ở đây tu hành là đã được trời hậu đãi rất nhiều do đó mình không nên lãng phí cơ hội quý báu này và không nên phụ lòng của Trưởng lão Thông Lạc. Các bạn hãy dũng mãnh tinh tấn tu tập pháp quán Hạnh thân bất tịnh này để chống thành Phật đạo.

(56:11) Thế nào là quán Hạnh thân bất tịnh. Quán hạnh nghĩa là phương pháp thực hành tập trung tư tưởng quan xét 32 vật bất tịnh trong thân, từ chân lên đến đỉnh đầu, đầy rẫy sự bất tịnh. Quán xét tỉ mỉ rõ ràng để trợ tưởng xuất hiện, đối với tâm tham đắm sắc dục.

Như các bạn đã biết nếu như người đa dục, dùng phương pháp Bất Tịnh trị. Nếu người nhiều nóng giận dùng Pháp môn Từ Bi trị. Nếu người nhiều ngu si lấy Pháp môn Quán Nhân Duyên để trị. Nếu người lo nghĩ lấy Pháp môn Định Niệm Hơi Thở để trị.

Người dâm dục nhiều nên tu hành Quán Thân Bất Tịnh từ chân cho đến đỉnh đầu: tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dày, máu mủ, thịt, gân, mạch máu, xương, tủy, gan, phổi, tim, lá lách, dạ dày, ruột non, ruột già, phân, nước tiểu, nước mũi, nước miếng, mồ hôi, nước mắt, cứt ráy,…​ (không nghe rõ) óc, bong bóng, mật đàm, bầy nhầy, mỡ, …​ (không nghe rõ). Đó là 36 thứ bất tịnh trong thân.

(57:21) Có 10 thứ bất tịnh trong thây chết mà chúng ta cần phải quán tưởng như sau:

  • Tướng phình trương, ngày thứ nhất: ở gần bên thây chết quán thây phình trương to lên.

  • Tướng xanh bầm, ngày thứ Hai: quán thây bị gió nắng bầm xanh biến dạng.

  • Tướng máu mủ, ngày thứ Ba: quán thây bị chảy máu mủ, nước rỉ trong thân chảy ra hôi thối.

  • Tướng nứt nẻ, ngày thứ Tư: quán thây bị nứt nẻ từng mảng thịt lớn nhỏ bị chảy rỉ nước.

  • Tướng bị gặm nhấm, ngày thứ Năm: quán tưởng chim thú đến xé ăn, gặm nhấm những từng khúc thịt của chân và tay.

  • Tướng bị rã rời, ngày thứ Sáu: quán thây chết, da thịt rã nát từng mảnh thịt rã nát ra.

  • Tướng bị phân tán, ngày thứ Bảy: quán thây bị phân tán ra từng khúc, từng mảnh thịt rời rạc, nằm lẫn lộn. Cái đầu phân tán ra, tay chân phân tán rời rã, không còn nguyên vẹn nữa.

  • Tướng bị chảy máu, ngày thứ tám: quán thây máu thịt rơi rớt lai láng từng mảnh vụn nhỏ.

  • Tướng bị trùng ăn, ngày thứ chín: quán tưởng chim thú ăn gân, xương, đầu, mình, tay, chân, rã rời, vi khuẩn dòi đục từng mảng thịt vụn lả tả.

  • Tướng bộ xương trắng, ngày thứ mười: quán tưởng da thịt đã chết bị chim thú và côn trùng dòi đục ăn hết chỉ còn bộ xương trắng bừa bãi.

Mười pháp quán tưởng này để đối trị việc tham ái tức là lòng tham đắm sắc dục nơi thân tâm con người. Khi tâm yêu sắc cho đó là tịnh, tâm yêu sắc biết liền biết là bất tịnh. Nếu là thật tịnh thì phải thường tịnh mà đây không phải như thế. Như chó ăn phân cho là sạch lấy con mắt người xem thì thấy rất nhơ.

(59:15) Thân này toàn cả trong ngoài đều không có chỗ nào là sạch. Nếu yêu dáng ngoài của thân, toàn thân da mỏng bao bọc, nếu cắt một miếng bằng ngón tay để thấy bày tướng bất tịnh, huống là 36 vật nhơ nhớp trong thân.

Hơn nữa, nếu xét ra nhân duyên tạo thành thân có bao nhiêu thứ bất tịnh, trước tiên do tinh huyết cha mẹ hợp thành mà bất tịnh, thành thân rồi thường chảy ra các thứ bất tịnh. Cho đến quần áo, mềm chiếu cũng là bất tịnh. Nếu đến khi chết, thì sự bất tịnh không thể kể siết, do đó nên biết sống, chết, trong, ngoài, đều là bất tịnh cả.

Khi một Tu sinh muốn tu tập Quán Thân Bất Tịnh về một tử thi phình trương, cần phải thọ giáo với một vị thầy am tường về đề tài này. Lúc đi đến bãi tha ma hay nơi có tử thi, vị Tu sinh phải thưa với một vị Tỳ kheo khác biết việc mình làm và nên đi theo chiều gió xuôi để tránh hôi thối làm cho mình nôn mửa.

Tử thi thích hợp phải là tử thi của người cùng phái vì nếu thi thể của một phụ nữ thì không thích hợp cho một Tu sinh phái nam. Thậm chí nếu thây mới chết nó còn có thể trông đẹp nữa là đằng khác và do đó có thể nguy hiểm cho đời sống Phạm Hạnh. Khi đã đến nơi, vị Tu sinh phải đứng đối diện với tử thi ở một khoảng cách vừa tầm nhìn rõ, không xa quá cũng không gần quá, thế rồi vị Tu sinh chú tâm trên đối tượng ấy với các yếu tố như sau:

  • Theo màu sắc của thân bất tịnh.

  • Theo đặc điểm của thân bất tịnh.

  • Theo hình dáng của thân bất tịnh.

  • Theo phương hướng của thân bất tịnh.

  • Theo định tướng của thân bất tịnh.

  • Theo giới hạn của thân bất tịnh.

Nhưng nếu hạnh Quán tưởng theo cách trên mà trợ tưởng bất tịnh chưa xuất hiện thì vị Tu sinh nên quán tưởng theo 5 cách khác nữa:

  • Những khớp xương trên thân bất tịnh.

  • Những chỗ mở ra trên thân bất tịnh.

  • Những chỗ lồi trên thân bất tịnh.

  • Những chỗ lõm trên thân bất tịnh.

  • Chung quanh bốn phía trên thân bất tịnh.

Theo những cách này thì Tu sinh chú tâm vào tử thi, thầm hướng Như Lý Tác Ý “Tướng phình trương tướng phình trương” cho đến khi nào hình ảnh tử thi hiện rõ trong tâm vị Tu sinh. Nếu tướng ấy vẫn chưa hiện rõ vị Tu sinh phải lặp đi lặp lại Như Lý Tác Ý nhiều lần “Bất tịnh này là tướng phình trương, bất tịnh này là tướng phình trương”. Nếu câu này mà chưa đạt được kết quả hãy còn dục, thì ta hướng tâm Như Lý Tác Ý: “Sắc dục là bất tịnh là uế trược, nhớt nhau, hôi thối, khó chịu vô cùng.

Sắc dục tạo muôn ngàn bệnh tật, tai ương và truyền nối nhau nhân quả luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, không bao giờ dứt, một người để lại muôn người khổ, nối tiếp nhau vô cùng vô tận. Ta phải xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn. Xem nó như rắn độc, ung nhọt, cho nó là hiểm nguy nhất, là tai họa, ác độc, bệnh truyền nhiễm nan y khó chữa”.

Câu sau mạnh hơn câu trước như truyền lệnh thì may ra ta mới có thể xa lìa và khi nhắm mắt lại, tưởng đến tướng ấy cho đến khi nào tướng ấy hiện ra trước mặt.

(01:02:37) Dù vị Tu sinh mở mắt nhìn hay nhắm mắt quán tưởng thì trợ tướng ấy vẫn luôn có mặt. Khi vị Tu sinh luyện tập đến độ nhuần nhuyễn trợ tướng sẽ khởi lên bất kỳ thời gian nào. Khi hướng tâm đến thì trợ tưởng xuất hiện liền, khi đó vị Tu sinh sẽ đắc Định An chỉ. Khi đã vững chắc với An chỉ, vị Tu sinh tu tập Tuệ giác và đắc quả A La Hán.

Tướng tử thi phình trương được tu tập như trên thì các tướng bầm xanh cũng áp dụng tương tự như thế chỉ cần đổi danh từ “phình trương” thành danh từ hợp với tình trạng của tử thi mà mình đang quán tưởng. Một người đã đắc Thiền nhờ bất cứ pháp quán Bất Tịnh nào trên đây thì thoát khỏi tham dục vì khi Tâm đã được tập trung vào đề mục quán tưởng thì không còn chú ý đến các đối tượng bên ngoài.

Khi khảo sát bản tính của từng người để tìm một pháp quán Bất Tịnh thích hợp ta thấy như sau:

  • Tướng của thây chết phình trương thích hợp cho mẫu người yêu dáng điệu vì nó làm hiện rõ sự xấu xí của hình dáng tử thi.

  • Tướng của thấy chết bầm xanh thích hợp cho người nào yêu màu da vì nó hiện rõ sự xấu xí của màu da.

  • Thứ ba: tướng của thây chết có mủ thích hợp với người nào yêu mùi thơm toát ra từ thân thể ướp hương vì vết thương này là làm hiện rõ mùi thối tha liên hệ đến thân thể.

  • Thứ tư: tướng của thây chết bị dập thích hợp cho một người nào yêu sự chắc chắn của thân thể vì nó làm hiện rõ những lỗ hổng trong thân.

  • Thứ năm: tướng của thây chết bị gặm nhấm thích hợp cho một người nào yêu sự tích tụ của thịt ở những phần thô như bộ ngực vì nó làm hiện rõ sự tích thụ của thịt đi đến tan rã.

  • Thứ sáu: tướng của thây chết bị rã rời thích hợp cho người nào yêu dáng điệu kiều diễm của tay chân vì nó làm hiện rõ tay chân bị rã rời như thế nào.

  • Thứ bảy: tướng của tay chết bị phân tán thích hợp cho một người nào yêu toàn bộ thân hình đẹp vì nó làm hiện rõ sự phân tán và đổi khác của toàn bộ thân thể.

  • Thứ tám: tướng của thân chết chảy máu mủ thích hợp cho một người nào yêu cái dáng vẻ yểu điệu do đồ trang sức mang lại vì nó làm hiện rõ vẻ ghê gớm của thây chết cả mình đầy máu me tanh hôi.

  • Thứ chín: tướng của thây chết bị trùng ăn thích hợp cho một người nào tham sở hữu thân thể vì nó làm hiện rõ thân này là chỗ ở của nhiều loài vi trùng.

  • Thứ mười: tướng bộ xương trắng thích hợp với người nào yêu hàm răng đẹp vì nó làm hiện rõ tính cách ghê tởm của những cái xương trong thân thể.

Đây là cách phân loại của hạnh Quán Thân Bất Tịnh, có 10 thứ tùy theo tính tham của mỗi người để đoạn diệt. Tuy pháp quán bất tịnh này được chia làm 10 loại nhưng đều có cùng một đặc tính đó là trạng thái không sạch, hôi hám, đáng ghê tởm, không những tử thi mới gọi là bất tịnh mà là một xác sống cũng mang đầy đủ tính chất bất tịnh như một xác chết. Chỉ khác một điều là tính chất bất tịnh nơi xác sống không rõ rệt vì nó có may mắn được che giấu dưới những lớp trang sức khả ái.

4-3- QUÁN XÉT CÁC THÀNH PHẦN CỦA THÂN BẤT TỊNH

(01:06:00) Sau đây là bản chất tích hợp của thân xác, nó là sự tích tụ hơn 300 cái xương được nối lại với nhau bởi 180 cái khớp dính liền nhờ 900 cái gân, xếp đầy khắp với 900 miếng thịt được bọc bằng da trong ẩm ướt. Bao ngoài với lớp da có những lỗ rải rác đó đây luôn luôn được tiết ra như một cái bình dầu mà trong đó là một tập thể vi trùng cư trú.

Đó là cái nhà của bệnh tật nền tảng của những trạng thái đau khổ luôn luôn được rỉ ra từ chín lỗ như một ung nhọt kinh niên. Nơi hai con mắt ghèn chảy, nơi hai lỗ mũi thì cứt ráy, từ hai lỗ mũi là nước mũi từ miệng là thức ăn, mật, đàm, máu, từ hai lỗ bài tiết bên dưới là phân và nước tiểu, và từ 99 cái lỗ chân lông tiết ra một chất mồ hôi vô vị với ruồi nhặng bu quanh.

Bàn chân con người có 26 đốt xương, 19 cơ bắp, 107 dây chằng và 33 mạch máu nên sự cấu tạo hoàn mỹ như vậy nó mới có thể chịu đựng được trọng lượng của thân thể bất tịnh và mọi hoạt động chạy nhảy của cơ thể. Cái thân xác này, nếu không được tắm rửa chăm sóc, khoác y phục bên ngoài thì xét về tính chất- đáng tởm: một ông vua cũng chẳng khác gì người hốt rác.

Nhưng nhờ đánh răng súc miệng, nhờ thoa ướp bằng hương hoa mà nó biến thành một trạng thái được xem là Tôi và của Tôi. Cứ thế, đàn ông say đắm đàn bà, đàn bà say đắm đàn ông mà không nhận thức được cái thực chất nhơ bẩn của cơ thể được che đậy bằng những thứ trang sức mong manh.

Trong ý nghĩa tối hậu thật không còn một chỗ nào trên thân xác, dù nhỏ như hạt bụi, đáng để mà tham đắm. Khi một mẫu nhỏ của nơi thân xác như tóc, lông, răng, móng rơi ra thì người ta sẽ không dám động tới mà còn cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã, ghê tởm. Vậy mà khi chúng ta còn ở trong thân xác thì mặc dù vẫn đáng ghê tởm người ta lại xem là dễ chịu, đáng ham muốn, trường cửu, khả ái, tự ngã.

Bởi vì trùm kín trong màn tối vô minh, bị tù đầy, tham ái đối với tự ngã mà người ta lại nhận thức sai lạc như thế. Chẳng khác chi như con chồn già thấy cái hoa đỏ trên cây mà tưởng lầm đó là miếng thịt

Xưa có con chồn già

Thấy cây lùm trổ hoa

Vội vàng chạy đến nghĩ,

Đây thịt cây sinh ra

Chồn ta nhai hoa rụng

Chả thấy nước nôi gì

Tưởng thịt trên cây khác

Thịt rụng có ngon chi”

Thế nhưng người trí sẽ quán sát thân này như sau:

Thân xác thối tha này

Như phân như nhà xí

Khó ưa với người trí

Những kẻ ngu say mê

Như vết thương chín lỗ

Bọc trong lớp áo da

Gỉ bất tịnh mọi chỗ

Uế khí mùi bay xa”

(01:09:04) Do vậy vị Tu sinh có khả năng nên nắm lấy bất cứ tướng bất tịnh nào khi thấy chúng hiển lộ, để làm đề mục Thiền quán, hòng xa lìa sự chấp thủ, tham đắm sắc dục. Như các bạn đã biết trong thân của ta có 36 thứ bất tịnh như sau. Khi một vị Tu sinh quan sát thân này thì phải quán sát từ dưới bàn chân trở lên cho đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những thứ bất tịnh, sai biệt.

Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, phân, mật, đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước khớp, xương, nước tủy, nước tiểu và não. 32 vật này được xếp thành 6 nhóm như sau:

  • Nhóm 1- Lông tóc gồm 05 thứ: tóc, lông, móng, răng, da.

  • Nhóm 2- Thịt xương gồm 05 thứ: thịt, gân, xương, tủy, thận.

  • Nhóm 3- Tim phổi gồm 05 thứ: tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi.

  • Nhóm 4- Ruột não gồm 05 thứ: ruột non, màng ruột, mỡ da, phân, não.

  • Nhóm 5- Máu mủ gồm 06 thứ: mật, đàm, mủ, máu mồ hôi, mỡ.

  • Nhóm 6- Nước tiểu gồm 06 thứ: nước mắt, nước mũi, nước miếng, niêm dịch, nước khớp xương, nước tiểu.

Một vị Tu sinh muốn tu tập một thiền quán bất tịnh này trước hết, phải đến thọ giới với một vị thầy đã có kinh nghiệm tu tập về nó, vị thầy cần chỉ dạy cho vị Tu sinh 7 điều kiện Thiện xảo để áp dụng cho việc tu tập như sau:

1- Học thuộc tên gọi của các vật.

2- Làm cho nó thuộc nằm lòng.

3- Viết rõ màu sắc của mỗi vật.

4- Biết rõ hình dáng của mỗi vật.

5- Biết rõ phương hướng.

6 - Biết rõ vị trí.

7 - Biết rõ giới hạn.

Đó là 7 Thiện xảo mà một việc Tu sinh muốn tu tập về quán tưởng 32 vật bất tịnh trước hết phải học tập. Tiếp đến vị thầy phải hướng dẫn về 09 điều kiện Thiện xảo trong việc trú tâm như sau:

(01:11:22)

1- Về thứ tự.

2- Không quá nhanh.

3- Không quá chậm.

4- Tránh phân tâm.

5- Vượt qua khái niệm.

6- Lần lượt loại bỏ.

7- Về định tĩnh.

8- Về tướng định.

9- Về tướng xả.

Nói chung vị Tu sinh khi bắt đầu học thuộc phải nhớ rõ thứ tự của từng vật, khi khảo sát không nên quá nhanh, cũng không nên vừa quá chậm vì nhanh hay chậm đều làm cho vật ấy không hiện rõ ràng. Đồng thời phải chú tâm không để cho tâm bị phân tán trong những đối tượng bên ngoài khi tâm phân tán thì thiền định bị xuống thấp.

Tiếp đến là vượt qua khái niệm nghĩa là phải quên tên gọi của chúng mà chú trọng khía cạnh ghê tởm của chúng. Thế rồi cần lần lượt loại bỏ những phần hiện rõ, nhờ đó mà vị Tu sinh phát sinh định tĩnh. Nhưng vị Tu sinh phải biết cách điều hòa mới đạt kết quả tốt nhất. Nếu một vị Tu sinh tu tập tăng thượng tâm mà chỉ tác ý đến tướng định thì tâm sẽ trở nên giải đãi, trái lại nếu tinh tấn quá mức thì cũng dễ sinh ra trạo cử. Thế nhưng nếu chỉ tác ý đến tướng xả thì tâm sẽ không tập trung đúng mức để diệt trừ các lậu hoặc.

Đức Phật dạy cho các Tỳ kheo về sự khéo léo trong cách tu tập pháp thiền Quán Thân Bất Tịnh được diễn tả như sau:

Này Các Tỳ kheo như một người thợ vàng thiện xảo sửa soạn lò để đốt lò và đổ vàng thô vào để luyện thì vị ấy thỉnh thoảng thụt bễ, thỉnh thoảng tưới nước, thỉnh thoảng ngồi canh chừng. Nếu người thợ vàng ấy chỉ có một bề: thụt ống bễ thì vàng sẽ cháy, nếu chỉ có một bề: rưới nước thì vàng sẽ nguội lạnh, và nếu chỉ ngồi nhìn mãi thì vàng sẽ không được tôi luyện đúng mức. Nhưng nếu vị ấy thỉnh thoảng thụt bễ, thỉnh thoảng rưới nước, thỉnh thoảng ngồi canh chừng thì vàng sẽ trở nên nhu nhuyễn dễ sử dụng, tươi sáng, không vỡ bể và dễ uốn nắn, muốn làm cho đồ trang sức như dây chuyền thì vàng đều làm được dễ dàng. Cũng vậy, này các Tỳ kheo có 3 tướng mà Tỳ kheo tu tập Tăng Thượng Tâm phải thỉnh thoảng tác ý thì tâm vị ấy trở nên nhu nhuyễn dễ sử dụng và tập trung đúng mức, để diệt trừ lậu hoặc. Vị ấy sẽ có khả năng chứng đắc bất cứ trạng thái nào mà vị ấy mong muốn chứng đắc bằng trí tuệ

(01:13:49) Khi khởi sự tu tập, trước hết vị Tu sinh phải khảo sát đối tượng thứ nhất của 32 vật uế tức là tóc- phương pháp khảo sát là dựa vào năm yếu tố đã đề cập trên: tức là màu sắc, hình dáng, phương hướng, xuất xứ và giới hạn của nó.

Trước hết, tóc bình thường có màu đen ngoại trừ vài trường hợp của những màu sắc khác.

Về hình dáng tóc có hình ống dài.

Về phương hướng chúng ở phía trên.

Về xuất xứ chúng ở trong lớp da sát lớp da bao bọc cái sọ.

Về giới hạn ở hai bên chúng là hai vành tai, phía trước là cái trán, phía sau là cái gáy.

Nói chung, chủ yếu của phương pháp khảo sát là làm nổi bật tính chất bất tịnh của chúng.

Vị Tu sinh lần lượt khảo sát 31 vật còn lại cũng theo phương cách vừa kể như ở đây chúng tôi cũng nên đi nhận vài vật cụ thể mà tôi đã có kinh nghiệm trong pháp quán này và nghiên cứu khảo sát tỉ mỉ để hiểu rõ và đối chiếu với y học hiện đại.

Chẳng hạn về răng, từ răng cửa cho đến răng cùng được chia thành bốn loại, từ loại răng một chân đến loại răng hai chân, ba chân và cuối cùng là bốn chân.

Về xương có tất cả 300 xương bao gồm 64 đốt xương chân, 64 xương sụn phụ thuộc vào thịt, 18 xương ống, 24 xương sườn gồm cả hai bên, 14 xương ngực, 7 xương cổ cộng tất cả thành số lượng kể trên.

(1:15:24) Về quả tim trái tim đập khoảng 60 đến 80 lần trong 1 phút. Toàn bộ máu trong cơ thể đi qua tim từng 60 giây, quả tim không phải như là một cái bơm mà thật ra là hai. Một trái và một phải, làm việc hài hòa nhau và không phải là hai thì mà là ba thì.

  • Thì một: tâm nhĩ -(1:15:45) tim giãn ra cho phép máu lên hai bên buồng trên hai tâm nhĩ.

  • Thì hai: có hai tâm nhĩ co bóp đẩy máu xuống hai buồng dưới,

  • Thì ba: tâm thu tâm thất, cả hai tam thất co bóp gửi máu đi khắp cơ thể.

Nhịp tim đập là tự động nhưng những xung đột thần kinh làm tăng hay giảm nhịp tim. Khi sợ hãi giận dữ, nam thượng thận sẽ tiết ra phoxe-nexin hay là amây-xamen làm tăng trưởng nhịp tim, tuyến giáp sẽ tiết ra xicô- cium. Khi tâm bình an, trung tâm thần kinh kích thích dây thần kinh số 10 sẽ làm chậm nhịp tim, thần kinh hệ sẽ tiết ra chất hai aixen (1:16:29) làm giảm nhịp tim.

(01:16:30) Xúc cảm làm ảnh hưởng tim biết bao. Khoa miễn dịch thần kinh tâm lý đã chứng minh rằng cảm xúc làm thay đổi nhịp tim và chức năng của tim. Một trái tim vui vẻ là một thần dược, tiếng cười vui vẻ có một sức mạnh vô song ngăn ngừa kịch phát tim và những bệnh tim hiểm nghèo khác đặc biệt tim nhạy với stress và u sầu. Cảm xúc quá độ làm tổn thương tim trầm trọng. Ở người có trí tuệ, trái tim khơi rộng; còn ở người không có trí tuệ, đó chỉ là một cái chồi hoa sen.

(01:17:04) Chúng ta quán tiếp về túi mật. Túi mật có hình quả lê nằm sau gan bên phải, túi mật chứa mật được tiết ra từ gan để chuyển hóa mỡ thành các nhũ tương dưỡng chất. Mật là một hỗn hợp axit mạnh còn gọi là muối mật cholesterol, monoglyceride. cholesterol tác dụng như một chất để ngừa axit mật ăn mòn túi mật và ruột non.

Gan và túi mật có trách nhiệm trong việc kiểm soát và làm quân bình cơn nóng giận. Một người mà gan và mật khỏe mạnh sẽ có tính tình hài hòa nhưng khi gan và túi mật gặp rối loạn thì dễ nổi sân giận và tính tình thường là khó chịu. Mật quân bình gan, mất quân bình gan và mật có thể gây đưa đến đau đầu, bất cứ rối loạn nào ở gan cũng sẽ làm rối loạn túi mật.

Về mật gồm có mật tại chỗ và mật luân lưu. Mật luân lưu rải ra như giọt dầu loang trên mặt nước, khắp cả trâu thân, từ tóc lông. Khi túi mật bị xáo trộn, sinh vật sẽ nổi điên khùng, mất hết tàm quý, mà làm ra những việc không suy nghĩ.

Về quả thận, chúng ta quán tưởng về quả thận. Con người có hai quả thận song song với cột sống trên thắt lưng, thận phải nằm dưới gan, thận trái nằm dưới lá lách, thận trái cao hơn thận phải. Hệ thống tiết niệu gồm hai quả thận, hai niệu quản, một bàng quang và một niệu khẩu. Niệu quản nối liền thận và bàng quang. Thận là nhà máy lọc tuyệt diệu, thận có thể nhận dạng tất cả những gì trong máu rồi quyết định phải xử trí ra sao. Thận giữ lại một lượng vừa đủ và phần còn lại phải thải ra ngoài.

Thận không phải như là một nhà máy lọc đơn giản, thận di chuyển những thành phần của máu, phân loại ra và rồi hấp thụ lại vào máu những chất thiết yếu. Một khi đã lọc sạch, máu được tụ vào tủy thận và tiếp tục chảy xuyên suốt cơ thể. Thận hoàn thành nhiệm vụ này với một hiệu quả hết sức lạ lùng tuyệt diệu khoảng chừng 1,125 lít máu chảy qua thận mỗi phút. Dù có hai quả thận nhưng chỉ cần một quả thận là đủ cho đời sống chúng ta.

Nỗi đau buồn khổ tâm gây ra một loạt thay đổi sinh lý trong cơ thể như làm tăng cao huyết áp và chất…​ (01:19:38) trong máu, mất quân bình nội tiết tố tăng lên. Tất cả phối hợp lại làm tàn phá tim và thận. Sự suy yếu hay giãn nở thận là nguyên nhân của một loạt vấn đề do lo âu sợ hãi quá mức, thiếu ý chí, thiếu lòng quả cảm, quyết đoán. Năng lượng thận suy yếu có thể đưa đến ù tai, nhiễm khuẩn tai, trẻ em đái dầm.

Bàng quang giống như thận, bàng quang kết hợp với những tháng mùa đông. Bàng quang sẽ bị ảnh hưởng bởi những sợ hãi và stress vì thế cần thanh thản và bình tĩnh dù trong những tình thế khó khăn. Đau vùng lưng khi thận và bàng quang bị rối loạn.

(01:20:16) Nước tiểu bình thường màu vàng nhạt, mùi nhẹ. Nếu ăn nhiều trái cây đường ruột sẽ làm nước tiểu loãng. Trái lại ăn nhiều muối, mỡ, thức ăn động vật thì nước tiểu đậm đặc dễ đưa đến khả năng sạn thận và bàng quang.

Chúng ta quán tưởng về lá gan. Gan gồm 2 tùy, tùy trái nhỏ và tùy phải lớn hơn. Mỗi tùy gan được chia thành những phần nhỏ hơn gọi là tiểu tuỳ. Gan là bộ tổng chỉ huy của cơ thể, là một phòng xét nghiệm, thử nghiệm và xác định các chất hóa học trước khi đi vào cơ thể, trung hòa các chất độc, tạo ra máu cần thiết, chuyển hóa các chất và góp phần trong miễn dịch.

Gan tạo ra mật giúp cho việc tiêu hóa mỡ. Gan tạo ra bổ thể- một chất cấu thành miễn dịch, bảo vệ cơ thể sống, chống lại nhiễm trùng. Gan tạo ra các chất đông máu, gan giúp việc phân hủy các hồng cầu già. Cuối cùng, gan loại bỏ các chất độc trong máu bằng cách thải trừ các loại thuốc và rồi làm thay đổi các cấu trúc hóa học để cho chúng trở nên vô hại.

Khi một chất độc trở nên vô hại, gan phóng thích nó ở một dạng lỏng trong dịch mật, từ đó đào thải qua đường tiêu hóa. Gan là nơi nhận máu rất nhiều, khoảng 1/4 lượng máu loại ngoại vi nằm ở gan, khi cơ thể nghỉ ngơi và khi bạn tập thể dục thì phần lớn máu được phân phối đến khắp cơ thể. Gan còn nhận máu từ lá lách, gan kiểm soát phần nào ở lá lách.

Mặc dù gan thực hiện hơn 500 chức năng bởi chỉ một loại tế bào của tiểu tùy, mà bao giờ cũng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Như thế có thể giải thích, tại sao gan vẫn hoạt động bình thường một cách đúng đắn và chính xác khi 3/4 cấu trúc tổ chức bị hủy hoại, gan với chức năng lọc sạch máu. Tuy nhiên, nếu chất độc vượt qua giới hạn khả năng lọc máu của gan, thì sẽ ứ đọng lại trong gan, trong máu, gây tác hại đến sức khỏe toàn bộ.

(01:22:19) Một cơ quan khác đặc biệt cũng tham gia vào việc lọc sạch máu là thận. Thế nhưng khi chất độc tiếp tục vượt qua mức cho phép hoạt động của các phủ tạng thì hệ thống miễn dịch sẽ được huy động lực lượng để chống lại nhưng sau đó sẽ làm suy giảm hệ thống miễn dịch. May thay gan có một năng lực phục hồi rất kỳ diệu khi những vấn đề gây rối được loại bỏ. Gan còn có những chức năng sống động như đem máu và khí đến cơ, răng, dây chằng, máu, tay chân và đặc biệt đến mắt.

Cơ, gân, khớp mềm dẻo linh hoạt mạnh mẽ khi có một lá gan lành mạnh, phản ánh một tâm hồn uyển chuyển hay linh động và ngược lại chúng ta trở nên căng cứng hay phản ứng yếu ớt với một lá gan suy nhược và đa số những vấn đề trục trặc ở mắt là do nguồn gốc từ gan và ngược lại. Khi mắt làm việc quá sức cũng làm cho gan trở nên mệt mỏi.

Gan duy trì sự ổn định của cảm xúc, đặc biệt là những cảm xúc mạnh của sự tức giận. Con người không chỉ hại gan bằng rượu, thức ăn quá dư thừa, mà còn cả những cơn giận dữ thường xuyên.

Sống và làm việc ở một nơi bừa bãi lộn xộn cũng thường mang lại sự mất cân bằng của gan. Sự trong sáng và ổn định tinh thần phản ảnh một lá gan khỏe mạnh. Hàng ngày, gan nhận một lượng khí tốt nhất từ 1 giờ sáng đến 3 giờ sáng, túi mật thì từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng. Như vậy, chủ yếu vào những giờ ngủ nghỉ. Mất ngủ về đêm làm ảnh hưởng xấu, từ 11 giờ đêm đến 3 giờ sáng là khi mà gan và túi mật đang được nạp khí vào, như thế như một bộ tổng tư lệnh, gan duy trì sự cân bằng của cơ thể cả thể chất lẫn tinh thần.

(01:24:03) Chúng ta quán tưởng về hệ hô hấp - phổi. Phổi là cơ quan chính của hô hấp, cung cấp oxy cho cơ thể và thải cacbonic, một khí CO2 đến các tế bào thì phối hợp với đường máu glucose tạo ra những phản ứng đốt cháy trong tế bào.

Những phản ứng này làm thoát ra năng lượng, mà tế bào dùng để duy trì đời sống, qua một loạt phản ứng phức tạp. CO2 và đường máu oxi hóa một phần tế bào và nhiễm sắc thể, từ đó năng lượng dự trữ trong phân tử gọi là ATT có trong những hệ thống sống động xuyên suốt. Tuy nhiên, khi cần năng lượng, ATT có khả năng cung cấp năng lượng cho đến các tế bào.

CO2 là quá trình chính yếu mà đường máu đốt lên như một nhiên liệu không có CO2 thì tế bào sẽ không có năng lượng và tất cả các bộ phận trong cơ thể sẽ ngừng hoạt động và chết đi.

Tây y nghĩ rằng thức ăn sẽ như một năng lượng chứ không phải là CO2 nhưng thức ăn sẽ vô dụng nếu như không có một chất đốt nếu không có CO2.

(01:25:05) Như vậy cả hai thức ăn và O2 là chính yếu trong quá trình tạo ra năng lượng. Năng lượng được hiểu như là một cái gì thiêng liêng thần kỳ, Ấn Độ gọi là khí - phana, là nguồn năng lượng vũ trụ Nguyên Thủy, đem lại cho mọi vật, mọi loài hiện hữu và sống động và cũng hiểu như là một điều kiện phát triển của con người, kiểm soát thể chất và tâm linh.

Thở tập thiền về Định Niệm Hơi Thở đều đặn và sâu làm cho thần kinh quân bình, tập trung và ít bị ảnh hưởng của ngoại cảnh. Hơi thở điều khiển bởi trung tâm hô hấp qua phổi, não bộ và sự kiểm soát là do ý chí tự do. Hơi thở là cửa ngõ vào tận sâu thẳm thể chất và tâm linh. Những người làm chủ được hơi thở đã điều khiển hơi thở tịnh chỉ các hành trong thân, nhập 4 Thiền làm chủ sự sống chết như sư ông Thông Lạc ở Trảng Bàng, Tây Ninh.

Như thế hơi thở là cửa lớn mở vào ngôi nhà của thần linh hiện hữu trong mỗi chúng ta. Sự sống con người biểu lộ rõ nét hơn cả qua sự hô hấp, các biến đổi của khắp cơ thể cũng theo đó mà chuyển hóa để giữ gìn các chất sống. Hơi thở không phải là phổi làm không khí di chuyển nhưng là thật ra một tiềm lực thiêng liêng mang đến tính chất thực thể của khả năng con người, biểu lộ ở nhiều bộ phận khác nhau và lưu thông xuyên suốt cơ thể.

Nếu một phần cơ thể bị bệnh thì tất cả các bộ phận khỏe mạnh khác phải chiến đấu không phải cho một bộ phận nào mà là cho toàn cơ thể, vì một chứng bệnh ở một bộ phận nào đó có thể làm tiêu vong cả cơ thể con người.

Phổi nhận khí tốt nhất là từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng, mất ngủ trong khoảng thời gian đó là do mất quân bình của phổi. Nếu hơi thở thích nông nhanh, chứng tỏ cá tính con người phần nhiều là yếu mềm không tự chủ. Trái lại, với nhịp thở sâu đều, đó là một con người tràn đầy nhựa sống, sâu lắng, quy củ, bình thản và an nhiên.

Những vị thầy Đông Phương khuyên chúng ta kiểm soát thận và tim là giữ vững kiểm soát cho được hơi thở trong mọi trường hợp, khi xúc động mạnh, giận dữ, sợ hãi quá độ chúng ta nên thở sâu, nhịp nhàng và đều đặn làm cho thận mạnh lên sẽ làm cho hơi thở trở nên sâu lắng hơn và làm cho phổi mạnh lên.

Yếu phổi sẽ dẫn đến đau buồn sầu khổ. Người nào có phổi mạnh có thể dễ dàng rũ bỏ quá khứ và giữ mức quân bình cảm xúc. Y khoa Trung Quốc còn cho rằng phổi chế ngự thú tính trong mỗi con người chúng ta. Phổi liên hệ với gan làm thống trị sự giận dữ, nếu cứ mặc tình cho giận dữ thì sẽ giữ dội, nói ngắn ra là con thú trong người hiện ra. Nếu phổi yếu mà gan lại quá độ thì phần thấp kém của bản chất con người sẽ ngự trị và giận dữ sẽ không kiểm soát được.

(01:28:03) Chúng ta quán tưởng đến phần dạ dày hay còn gọi là bao tử. Nước bọt ở miệng là một thứ nước kiềm tính: 99% là nước, thêm một thêm một ít muối khoáng, tế bào và muối vô cơ. Nước bọt chứa các chất men amino-sen dự phần vào tiêu hóa chất bột, nước bọt làm ẩm ướt thức ăn, trộn lẫn làm mềm, để dễ nuốt, làm sạch và trung hòa độc tố, vi khuẩn và những tác nhân ngoại lai.

Dạ dày chứa thức ăn, tiết các dịch vị tiêu hóa, nhào trộn nghiền nát thức ăn thành một khối mịn như kem, bắt đầu tiêu hóa protein và cuối cùng là tiết một chất dịch vị hỗn hợp vào tá tràng. Dịch vị dạ dày được tiết ra ngay khi bạn thấy, ngửi thức ăn. Mê-phen-cil hay phân hóa protein để dễ thâm nhập vào ruột non.

Cho-phy-ship acid diệt vi khuẩn ở thức ăn và giúp cho-fensin hoạt động, một men khác gọi là yếu tố ngoại cũng được tiết ra dự phần và sự chuẩn bị vitamin D12 được ruột non hấp thụ sau này. Chất nhầy glucose cũng được những tuyến đặc biệt tiết ra.

Trong thế giới loài vật kích thước dạ dày thay đổi phù hợp với loại thức ăn mà loại động vật đó tiêu thụ. Dạ dày của loài ăn thịt có xu hướng tương đối lớn hơn loài ăn cỏ, so với phần còn lại của đường tiêu hóa. Như vậy ruột, miệng và ruột non tiêu hóa…​ (01:29:38). Nhai kỹ để bảo đảm rằng đã trộn lẫn một lượng vừa đủ nước bọt và những men tiêu hóa trong nước bọt.

Nhai kĩ từng miếng thức ăn trên dưới 35 lần nếu có thể. Thức ăn trộn nhuyễn với nước bọt góp phần vào việc làm kiềm hóa các thức ăn có thể làm mất tác dụng xấu của thức ăn mang tính axit làm bụng ít đầy hơi. Nhai kỹ làm phân hóa thức ăn, làm cho dạ dày và ruột non dễ tiêu hóa thức ăn hơn.

Dạ dày chấp nhận đồ ăn có thể xem như ẩn dụ cho khả năng của con người bao trùm và chấp nhận đời sống. Dạ dày nằm ở giữa cơ thể như là một trung tâm một điểm quân bình mà xoay quanh đó là những vấn đề của đời sống con người. Những ai có dạ dày khỏe mạnh là có được cảm xúc quân bình giữa những điều kiện thay đổi. Một dạ dày yếu làm cho con người dễ bị kích thích lo lắng.

(01:30:30) Sự chuyển động của năng lượng đời sống bởi dạ dày và lá lách nằm trong chiều hướng đối nghịch nhau. Dạ dày điều khiển nhu động đi xuống trong lúc lá lách lại kiểm soát nhu động đi lên.

Nôn mửa là một ví dụ dạ dày quá co bóp tại tá tràng và trong khi lá lách trở nên giãn, kích thích, do đó lúc dạ dày không cho phép đồ ăn và năng lượng đi xuống bên dưới để vào ruột non. Trong khi đó, lá lách lại kích thích những năng lượng làm cho thức ăn đi lên. Điều này xảy ra khi thức ăn quá nhiều hay bị stress và tác động. Dạ dày phối hợp tốt vào cuối hè từ giữa tháng 7 đến tháng 9. Ở thời gian này, dạ dày và lá lách nhận nhiều khí nhất, dạ dày hoạt động mạnh nhất từ 7h sáng đến 9h sáng.

(01:31:18) Chúng ta quán tưởng tiếp về ruột non. Ruột non chia làm ba đoạn: tá tràng dính liền với dạ dày, nhận được mật và suy tạng; hỗng tràng và hồi tràng. Hồi tràng nối với ruột già và chỗ phình bầu nên gọi là nanh tràng. Đó là chỗ chấm có hai nếp trong ống ruột, để phòng ngừa thức ăn trào ngược trở lại vào ruột non một khi đã vào ruột non.

Ống ruột có bốn lớp, lớp trong cùng là niêm mạc nhầy, dễ bị tổn thương với tia X quang hay tia phóng xạ. Ruột non chứa hàng ngàn tỷ vi khuẩn, một số vi khuẩn vượt qua được dạ dày và một khi đã vào ruột non và sang môi trường axit là bắt đầu sinh sản. Vi khuẩn ruột giữ một vai trò dương tính mà vào việc tham gia phân hóa thức ăn và quá trình tiêu hóa làm cho chất dinh dưỡng dễ dàng thâm nhập vào tuần hoàn máu.

Mục đích của ruột non là tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng, ruột non còn tiết ra các chất nhầy kết hợp với thức ăn gọi là nhũ trạch làm cho bề mặt của ruột non ít bị bào mòn. Tại ruột non các vật chất thô sơ của đời sống, chất dinh dưỡng biến đổi để thích hợp với cơ thể. Thời gian đi ngang qua ruột tính từ lúc ăn vào đến lúc thải bỏ chất cặn bã là tùy thuộc vào sự lành mạnh của ruột và các loại thức ăn hấp thụ.

Thức ăn dầu xơ sợi, di chuyển nhanh ra khỏi ruột. Thức ăn nặng nề hơn, giàu thịt, nhất là mỡ thì cần phải cần nhiều thời gian hơn. Trung bình thức ăn phải mất khoảng 4,6 giờ ở dạ dày; 5 đến 6 giờ ruột non và 15 đến 24 giờ ở ruột già trước khi loại bỏ ra khỏi cơ thể.

(01:33:06) Những rối loạn ở đường ruột gây rắc rối cho con người, là táo bón và tiêu chảy. Ở các nước đang phát triển, có đến 4,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì tiêu chảy mỗi năm. Những loại bệnh thông thường của ruột phần lớn tập trung ở ruột già, ruột non ít bị hơn…​ (1:33:25) - không nghe rõ, về tiểu tràng khu vực thường là ở ruột non.

Chúng ta quán tưởng tiếp đến ruột già. Ruột già gồm bốn đoạn: đoạn lên nối với ruột non tại manh tràng; đoạn ngang; đoạn xuống; đoạn cuối là đại tràng (1:33:43)- không nghe rõ) tiếp nối với trực tràng, ống hậu môn và hậu môn, tại manh tràng có ruột thừa.

Hàng ngàn tỷ vi khuẩn sống trong ruột già, nhiều hơn so với ruột non. Vi khuẩn có hại và vi khuẩn có lợi cho cơ thể. Chế độ ăn ảnh hưởng rất lớn đến vi khuẩn và sự lành mạnh của ruột già. Vi khuẩn cũng tạo ra nơi làm hôi thối và thối rữa, làm men thức ăn. Chức năng chính của ruột già là hấp thụ nước dư thừa của ruột non làm cho phong phú lại.

Ruột già cũng hấp thụ một vài loại vitamin, muối khoáng mà ruột non không hấp thụ được. Túi thừa là những ổ nhỏ hay là những u nhỏ trên nền ruột, thức ăn không tiêu hóa thường bị giữ lại trong túi thừa đó, sau đó sẽ bị thối rữa và vi khuẩn độc hại sẽ tăng lên, gây ra viêm túi thừa.

Sợi xơ là một thực phẩm không tiêu hóa được làm tăng nhanh thời gian di chuyển qua ruột, làm sạch ruột non và ruột già, lấy đi chất mỡ và lượng thức ăn thừa bị đọng lại, bỏ lại, mà không tiêu hóa được. Đặc biệt là protein động vật, mỡ, gan. Và cũng như thế làm hấp thụ tác động của các chất sinh ung thư trong ruột lên sự phát triển của khối u. Các thành phần xơ sợi từ hạt đậu, thực vật và trái cây làm tăng sức khỏe của ruột hơn hẳn các thức ăn khác.

(01:35:15) Chúng ta quán tiếp về lá lách một bộ phận tinh tế. Lá lách ở bên trái bụng, to bằng nắm tay, có khả năng co giãn được. Trong đời sống phôi thai, lá lách tạo ra hồng cầu, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Sau sinh, vai trò này được chuyển giao cho tủy sống. Nhu mô lá lách sản sinh ra cali-forn và đại thực bào. Đó là hai loại tế bào miễn dịch cần thiết cho chức năng miễn nhiễm, sẽ tạo nên kháng thể đặc biệt dành riêng cho những kháng nguyên đặc biệt hay bệnh lý. Ai bị cắt lá lách thì hệ thống miễn dịch yếu hơn và dễ bị viêm nhiễm và dễ bị nhiễm bệnh hơn.

Lá lách có khả năng co giãn được như thế có thể chứa một lượng máu thay đổi. Khi tập thể dục hay bị kích thích bởi dây thần kinh hay nội tiết tố, lá lách co lại và giữ máu đi nhiều hơn, đến các hệ thống khác trong cơ thể. Lá lách là nơi chứa đựng những hồng cầu già, bị hư hỏng và vi khuẩn và những thành phần này sẽ bị tiêu hủy bởi pre-for và đại thực bào. Methyl propin là chất được tái sử dụng từ những tế bào hồng cầu đã tiêu hủy và để tạo những tế bào hồng cầu mới và sắc tố bạch.

Lá lách được xem như là một nguồn gốc của sự vững mạnh bên trong và trung tâm. Do đó khi lá lách mạnh khỏe, thì cơ thể sẽ đủ sức khỏe, quân bình và an toàn hơn. Khi một lá lách khỏe, sẽ cho một con người đầy sự thông cảm và nhìn xa thấy rộng khi có những biến cố xảy ra. Khi lá lách bị suy yếu thì sự sợ hãi có thể ngự trị. Cảm xúc phối hợp với lá lách là sự cảm thông, lòng trắc ẩn, như thế lá lách có một mối tương quan với vị ngọt, thời tiết và tính khí con người.

Lá lách có trách nhiệm cho một chuỗi chức năng quan trọng, không chỉ là một hành động ghi nhận những tư tưởng nhỏ bé của con người mà lá lách còn nhận được những rung động tế nhị, những tư tưởng sâu xa vô cùng của vũ trụ.

(01:37:29) Chúng ta quán tưởng tiếp về hệ thần kinh và não. Hệ thần kinh gồm có trung ương thần kinh, não, tủy sống và thần kinh ngoại biên nối với trung ương não bởi 12 đôi dây thần kinh và 31 đôi đến tủy sống.

Hệ thống thần kinh là mạng lưới thông tin tuyệt diệu nhất trên quả đất này, đó là một điều kỳ diệu là một dàn nhạc giao hưởng bởi hàng tỷ tỷ nốt nhạc mà khi mạnh khỏe thì không bao giờ sơ suất một điểm nào nhỏ. Nó điều khiển hàng loạt và vô tận những sự việc dầu cho có phức tạp đến bao nhiêu.

Hệ thống thần kinh là nguồn của ý thức trí nhớ và trí tuệ, là nền tảng của những hoạt động tâm linh, hướng thượng, của lý luận, của suy nghĩ, của phán đoán và của cảm xúc. Hệ thống thần kinh phát triển đầy đủ, hoàn thành trong đời sống phôi thai và sau đó không được thay thế vì dây thần kinh mất khả năng sản xuất. Tế bào thần kinh chết vì chiếu tia xạ…​(1:38:30)- không nghe rõ) viêm nhiễm, tuổi tác, thiếu oxy, ngộ độc từ thuốc men hay rượu. Hệ thống thần kinh trung ương bị tổn thương không phục hồi được khi cơ thể bị thiếu oxy khoảng 4 phút.

(01:38:48) Não là nền tảng của cơ thể, là nguồn gốc của tư duy. Đây là chỗ giao lưu của hữu hình và vô hình, ở đó những vật thể và khí huyết trộn lẫn với suy tư, xúc cảm, thiên hướng và tâm linh. Nên nhớ biết rằng, hầu hết chúng ta chỉ sử dụng một phần quá nhỏ bé của khả năng não bộ.

Não thì nằm trong hộp sọ, là cơ quan chính yếu của hệ thần kinh trung ương. Kích thước não bộ là một trong những chỉ điểm của tài năng xuất chúng, trí tuệ tuyệt vời, nhưng không chỉ là một yếu tố đó. Não bộ thực hiện tất cả với một tốc độ diệu kỳ, vượt qua mức mà không có một máy vi tính hiện đại nào có thể sánh kịp.

Não bộ là huyền bí hơn chúng ta tưởng. Không một ai biết cơ bản của rung cảm và suy tư là gì? Tại sao phần nhỏ bé tí tí trong não như vùng dưới đồi, chỉ 4g lại liên quan đến nhiều nhiệm vụ phức tạp đến thế? Khoa sinh học hiện đại cho biết: tiềm năng trí tuệ con người hầu như vô tận. Với 15 tỷ tế bào não mà một người bình thường trong cả đời sống, chỉ sử dụng có 4% và sử dụng cao nhất là 10 đến 12% năng lực tinh thần của chúng. Khai thác được 25% sẽ trở thành nhân tài, được 30% sẽ trở thành vĩ nhân. Như vậy, càng làm việc trí óc thì bộ não càng phát triển những khả năng kỳ diệu tiềm ẩn.

(01:40:15) Thưa các bạn, chúng tôi chỉ nêu lên một vài ví dụ về các bộ phận trong cơ thể, để các bạn có thể khảo sát giúp cho pháp quán đi sâu hơn, thì trợ tướng sẽ hiện rõ. Khi một vị Tu sinh chú tâm quan sát về các màu sắc, hình dáng, chức năng, xu hướng, trú xứ và ranh giới của 32 vật này, cho đến lúc dù mắt không trông thấy, chúng vẫn hiện rõ trong tâm. Đó là sự tụ tập về học tướng đã nhuần nhuyễn và phát triển.

Tính chất ghê tởm của chúng làm cho tâm cảm thấy nhàm chán, đó là trợ tướng xuất hiện. Khi một vị Tu sinh khai triển được trợ tướng làm cho nó rõ ràng thì định tướng sẽ khởi lên. Nhưng nên nhớ rằng pháp quán 32 vật bất tịnh này chỉ xuất hiện khi nào tâm thật định tĩnh, nhu nhuyễn và dễ sử dụng.

(01:41:06) Như chúng ta đã thấy chín lỗ cống trong thân người, mỗi ngày bài tiết ra không biết bao nhiêu là thứ nhơ nhớp. Vậy chắc chắn là bên trong thân xác, các chất liệu cấu kết nên thể xác của chúng ta cũng không thể trong sạch được. Vậy Quán Bất Tịnh là quán sát cái thể chất của thân người, để nhận thấy nó bất tịnh như thế nào.

Thể chất của con người đại khái gồm có ba chất: chất cứng như xương, tóc, lông, móng tay. Chất lỏng như: máu, nước miếng, nước mắt. Chất sệt không cứng mà cũng không lỏng như nước, như mỡ, óc, tủy. Trong các chất ấy dù cứng mềm hay lỏng, chẳng có thứ nào là trong sạch.

Về chất cứng, như tóc chẳng hạn, là một vật mỹ quan để trưng diện trên đầu. Thế thường ai cũng quý nó, nhưng nếu không săn sóc nó một cách công phu nghĩa là không trâm cài, lược dắt, không chải chuốt, gội rửa, sức ướp nước hoa, mà để bê bết cho nó tự do quét bụi, tự do dầm sương dãi nắng, để làm rối bù lại cho ổ trứng chí sinh nở, thì dù cho không xua đuổi thì người ta cũng chạy dài, không dám lại gần. Đó là chưa nói khi nó bị đốt cháy hay rời da đầu rơi vào thức ăn hay vào trong miệng thì thật vô cùng nguy hiểm. Tóc là thứ ở nơi cao quý của con người mà còn bất tịnh như vậy thì những thứ khác như ruột gan lại còn bất tịnh biết chừng nào!

Về chất lỏng thì nước miếng là sạch nhất vì nó được ở trong miệng là nơi hàng ngày được lau chùi súc rửa nhiều nhất. Thế mà lúc ra khỏi miệng dù là của kẻ khác hay của chính mình, dẫu bị dính vào mặt, vào áo thì ta liền có những cử chỉ tỏ rõ sự gờm gớm ngay.

Về chất sệt thì não là phần quan trọng và được ở trong đầu đó là nơi cao quý nhất nhưng thử tưởng tượng khi chúng ta bị xe hơi chẹt chẳng hạn, rủi bị tai nạn, người ngồi bên cạnh ta bị bể đầu, não trắng như đậu hũ tung tóe vào mặt mày chúng ta, thì chắc chắn những người thiếu bình tĩnh sẽ chết ngất vì ghê tởm.

Thử xem vài ví dụ trên cũng thấy được cái bất tịnh của những chất cấu tạo thành thân thể chúng ta. Nếu nói nhiều hơn nữa thì lại càng thấy bất tịnh nhiều nữa và chắc chắn các bạn sẽ gờm nhớm và không đọc tiếp nữa.

Trong kinh đức Phật đã bảo thân người do tứ đại giả hợp mà thành, khi người chết trút hơi thở cuối cùng, thân xác sẽ bước sang giai đoạn hư hoại. Xác con người phải trả về cho tứ đại là đất, nước, gió, lửa. Trước hết là hơi thở trở về với Phong đại, kế là hơi thở trở về với Hoả đại, tiếp theo là chất lỏng trong người trở về với Thủy đại và cuối cùng chất cứng và chất sệt như thịt xương hóa lẫn vào Địa đại.

(01:44:02) Nhất là hai thứ sau này, trong thời kỳ mềm hư tan rã thì trên thế giới này không có thứ gì nhớp nhơ, hôi hám, ghê tởm hơn nữa. Dù cho xác chết có trước kia là người thân mến nhất đời, nhưng để năm bảy ngày chưa kịp tẩm liệm, chôn cất thì ta vẫn ghê tởm, không thể đến gần bên cạnh mà không bịt mũi. Sự thật tàn nhẫn này được phơi bày nhan nhản khắp nơi trong những giai đoạn chiến tranh. Nói một cách tổng quát từ kẻ sang đến người hèn, từ kẻ giàu đến người nghèo, từ kẻ già đến người trẻ, từ kẻ đẹp đến người xấu, ai ai đến giai đoạn này cũng chỉ là một mùi giống như nhau - mùi hôi; một chất như nhau - chất thối.

Cái bất tịnh của con người trong giai đoạn kết thúc này đã rõ rành rành tưởng không cần phải giãi bày thêm nữa. Nói cái thân là bất tịnh chắc có nhiều người ngạc nhiên phản đối, cho là Phật đã nói quá đáng, trong đời còn cái gì là quý báu hơn cái thân đâu. Người ta bao bọc nó, nâng niu nó, cung phụng nó đủ điều, người ta cung cấp cho nó đủ thức ngon vật lạ, người ta đùm bọc cho nó hàng lụa là gấm vóc, người ta che chở nó trong nhà cao cửa lớn, người ta dám làm tất cả những việc bất nhân tổn đức, để cho nó được sung sướng. Cái thân được quý chuộc tôn trọng như thế mà bảo rằng nó là dơ bẩn gớm ghiếc thì ai mà nghe được.

(01:45:29) Xong bình tĩnh mà xét lại cái thân này thật không có gì là trong sạch cả. Chúng ta đã có một quan niệm rõ ràng chính xác về cái thân bất tịnh của thân người. Cả một thời gian đằng đẵng từ lúc đầu thai đến khi bị vùi xuống đất, quả thật trong người không tìm thấy một tí gì trong sạch. Dẫu có tài hùng biện đến đâu cũng không ai có thể ngụy biện cho cái thân bất tịnh trở thành thanh tịnh được.

Có người sẽ hỏi tại sao trong khi cuộc đời đã xấu xa đau khổ, đức Phật lại còn vạch thêm cho người ta thấy cái dơ bẩn, nhớp nhúa của thân người làm gì? Tại sao không cho người đời có cái ảo ảnh rằng thân người là đẹp đẽ, trong sạch để họ có thể tự an ủi và quên lãng một phần cái xấu xa của kiếp người, mà lại làm cho đời thêm chán trường tuyệt vọng khi nhận rõ cái thân bất tịnh của mình?

Trước tiên chúng ta phải nhận định dứt khoát rằng: đạo Phật là đạo như thật, thiết thực, không có thời gian đến để mà thấy, đạo của chân lý.

Đức Phật không muốn lừa phỉnh chúng sinh lấy xấu làm tốt, lấy dở làm hay hoặc trái lại. Do đó chúng ta đừng bao giờ quên rằng chính cái tâm vọng tưởng rằng thân người là trong sạch đẹp đẽ, đã gây tai họa lớn cho người đời. Vì lầm tưởng thân người có giá trị quý báu nên đối với chính bản thân mình thì người ta nâng niu cưng dưỡng, tìm hết mọi cách không từ một hành vi xấu xa nào để nuôi dưỡng phụng sự nó.

Đối với thân người khác phái, thì say mê đắm đuối, tìm mọi cách để chinh phục làm của riêng của mình. Vì sự đánh lầm giá trị, tham đắm sắc thân giả dối ấy mà cuộc đời chung cũng như một cuộc đời riêng đã xấu xa lại càng thêm xấu xa, đã đen tối lại càng thêm đen tối. Lại nữa, khi đã đánh lầm giá trị, lấy xấu làm đẹp, lấy dở làm hay, lấy thối làm thơm, thì tất nhiên cái đẹp, cái hay, cái thơm, chân thật sẽ bị bỏ rơi, không còn được biết và dùng đến.

Loài người vì ham đắm cái xác thân nhỏ hẹp, xấu xa, ngắn ngủi, mà bỏ mất cái tâm rộng lớn, đẹp đẽ, trường tồn. Vậy đức Phật khi đã xé tan cái màn ảo ảnh bao bọc xác thân và làm lộ nguyên hình cái xác thân bất tịnh và nhắm mục đích hướng tầm mắt và sự hoạt động của kẻ tu hành vào cái giá trị chân thật, đẹp đẽ, rộng lớn và trường tồn hơn.

Một khi quán thân này đã thuần thục thì chúng ta thấy một cách tường tận như ở trước mắt: thân mình và tất cả mọi người đều bất tịnh, không có gì đáng quý chuộc, ham muốn. Do đó có thể đối trị được bệnh ham sắc dục là một căn bệnh rất trầm trọng và nguy hiểm của con người trên bước đường tu hành.

(01:48:29) Nhưng Quán Thân Bất Tịnh là để trừ lòng ham đắm sắc dục chứ không phải để ghê tởm thân mình đến nỗi đi hủy bỏ mạng sống như 60 vị Tỳ kheo trong thời Phật tại thế, sau khi Quán Thân Bất Tịnh thuần thục rồi thấy ghê tởm mình và người chung quanh đến nỗi thuê người giết đi. Đấy là một điều đức Phật nghiêm cấm.

Đừng khinh trong túi đất nhơ không có ngọc, chứ có lầm trong bể nước bẩn không có vàng, chứ tin tưởng rằng trong thân bất tịnh này không có tâm, mà đi tìm Phật ở đâu xa. Đức Phật thường dạy: “mỗi chúng sinh đều có thể thành Phật”.

Nhờ có cái thân này chúng ta mới tu chứng, làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Các bậc hiền nhân, Thánh trí cũng từ nơi con người mà sinh ra, chứ không phải từ trên trời mà rơi xuống được. Cho nên cái thân nó là vô thường nhưng không mất. Nó lẫn lộn trong bất tịnh mà thường vẫn thanh tịnh. Chúng ta biết lợi dụng cái thân bất tịnh, vô thường này mà tìm ra cái tịnh, cái thường ấy, chính là thâm sâu ẩn ý của đức Phật khi dạy về pháp quán tưởng này.

Ngày nay, chúng ta có được Tuệ nhãn Tam Minh như Phật, như thầy Thông Lạc để thấy rõ tính chất vô thường, bất tịnh của thân. Nhưng nhờ khoa học đã phát minh ra quang tuyến X- chúng ta có thể thấy rõ được rõ ràng những bộ xương sườn, xương ống, đầu lâu, tim, gan, phèo phổi một bộ khế của một tuyệt thế giai nhân qua ống rọi chiếu và chừng ấy cũng đủ cho chúng ta quan niệm rằng: cái đẹp chỉ là một cái bộ áo hào nhoáng bên ngoài là lớp da bọc, chứ bên trong thì bộ xương người nào cũng giống nhau cả. Qua quang tuyến X thì cái đầu lâu của một người đẹp cũng chẳng khác gì cái đầu lâu trắng phiêu đang nằm lăn lóc ngoài bãi tha ma.

Nên nhớ khi thực hành pháp Quán Thân Bất Tịnh đòi hỏi sự nhẫn nại bền bỉ và cố gắng trong thời gian dài để hoàn thành, không có con đường tắt, không có công thức thần kỳ. Tiến trình thiền quán đòi hỏi sự tích cực, như lội ngược dòng. Bạn sẽ thất vọng nếu bạn mong muốn có kết quả tức khắc, hay nhanh chóng từ việc quán thân bất tịnh của bạn.

(01:50:39) Nếu bạn là người bận rộn với những tham vọng trần tục, bạn không thể tức khắc luyện an tâm bạn đến mức dẹp hết được tất cả tư tưởng, bạn không thể ngay lập tức kinh qua được sự tập trung tỉnh thức mạnh mẽ và liên tục. Nếu bạn hi vọng tiến bộ về phương pháp quán tưởng thân bất tịnh bạn phải đặt mình vào một số luật lệ rèn luyện.

Luật lệ rèn luyện rất quan trọng đối với thể sức của một lực sĩ muốn chiếm giải vô địch. Cũng thế, luật lệ rèn luyện rất quan trọng đối với việc sung sức của một vị Tu sinh muốn đạt được tiến bộ lâu dài thiết lập kỷ lục. Tự giác giống như dây có cây đàn guitar không căng quá mà cũng không quá trùng. Đừng để mất sự hòa hợp.

Sức khỏe về tinh thần và thể lực tốt rất cần thiết cho sự tiến bộ của bạn, bạn phải duy trì và tạo ra năng lượng tinh thần và thể chất đầy đủ. Một thân xác và hay một tâm yếu đuối và suy nhược là một trở ngại cho việc thực tập Hạnh quán tưởng thân bất tịnh.

Bạn phải để cho thân và tâm nghỉ ngơi thực tập và có chế độ ăn uống đúng cách. Làm sao bạn có thể phán xét sự tiến bộ thực sự của bạn về phương pháp thực hành quán tưởng trên thân bất tịnh không mấy dễ dàng cho mọi người ước lượng sự tiến bộ tinh thần của mình. Không nên xét đoán sự tiến bộ qua trạng thái hưng phấn chốc lát, nhận thức biến đổi, tình trạng bất thường của tâm.

(01:52:02) Sau đây là một luật lệ khắt khe để bạn đo lường sự tiến bộ thực sự của bạn, nếu bạn đạt sự gia tăng về trạng thái hạnh phúc an lạc và thực tỉnh và bạn thấy giảm thiểu tình trạng buồn bã, thất vọng, lo lắng, băn khoăn, tâm không còn sự tham đắm vào sắc dục, bạn có sự tiến bộ thực sự. Trạng thái tập trung tỉnh thức có thể được phát triển như một loại thiền chính thức. Tuy nhiên, trạng thái này phải được dần dần chuyển vào đời sống hàng ngày.

Việc này cần phải có thời gian cố gắng và nhẫn nại nhưng bạn có thể áp dụng pháp quán này trong suốt cuộc đời mình. Nếu bạn muốn như vậy, bạn có thể luôn luôn tạo những cơ hội phát triển một số nhãn thức tập trung tỉnh thức trong đời sống hàng ngày. Trong đời sống hiện đại có quá nhiều bổn phận phải thi hành, quá nhiều hành động vội vàng.

Những lúc căng thẳng và tình trạng lo lắng tạo thành sự lãng phí lớn năng lượng tinh thần. Giữa cái náo vọng của cuộc đời hãy bỏ ra ít phút trong một ngày để thiền định, lặng lẽ, hòng làm sung mãn tâm, đó là tài sản cho công việc hàng ngày của bạn và cho sự tiến bộ. Bằng cách quan sát tư tưởng và cảm nghĩ của những người khác khi chúng phát sinh trong lề lối hàng ngày.

Bạn cũng có thể từ từ thăm dò ý nghĩa bên trong của sự vật. Bạn có thể tìm thấy sức mạnh và an lạc bên trong. Nếu bạn có thể tu tập Quán hạnh tưởng thân bất tịnh trong đời sống hàng ngày, bạn hoàn toàn sống và đang sống trong hiện tại, bạn hoàn toàn tỉnh thức về điều xảy ra bên trong và xung quanh bạn. Trong cái thế giới đầy biến động này, bạn sống với nội tâm an lạc và thanh thản.

Áp dụng bài học Quán Thân Bất Tịnh này vào bản thân, là một Tu sinh đang trên đường tu tập, tôi áp dụng vào đời sống của mình để xa lìa sự chấp thủ nơi thân. Mỗi ngày tu tập, tôi đặt niệm trước mặt, dùng Pháp Hướng tâm để xả với câu tác ý như sau: “Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác, ta phải xả bỏ, từ khước, thoát ly ra khỏi, từ giã không nên để vướng tâm vướng mắc”. Ngồi kiết già yên lặng một lúc thì tôi lại tác ý xả nữa, xả hoài, cho đến khi nào tôi thấy tâm hoàn toàn sạch hết thì sự tụ tập mới viên mãn.

(01:54:28) Đức Phật và Trưởng lão Thông Lạc cũng dạy tôi như thế, nhưng tôi rút ra từ kinh nghiệm bản thân. Nếu không đặt niệm trước mặt, nếu không dùng Pháp hướng Như Lý Tác Ý thì khó mà xả được tâm này, nó sẽ chờ cơ hội để bùng lên như lửa.

Câu tác ý ở trên chưa đủ hiệu quả, tôi liền dùng câu tác ý khác: “Thân này là bất tịnh, hôi thối, nhơ bẩn, không được tham đắm thân bất tịnh. Hãy cút đi!”. Câu sau mạnh hơn câu trước nên có hiệu quả ngay liền, nhắc xong là tôi ngồi đó để lắng tâm giữ tâm thanh thản một lúc. Sau tôi lại nhắc nữa, nhắc hoài như đập những nhát búa để cho tâm dần dần thấm nhuần. Trau dồi tâm, xả sạch sắc dục, thấy sắc dục là tôi hoảng sợ, nó giống như con rắn độc, là bệnh tật, là khổ đau, cho nên tôi không còn cảm giác thích thú với thân bất tịnh của chính mình nữa.

Cuộc đời tu hành là cả một sự rèn luyện, trau dồi chứ không thể nói suông được các bạn ạ! Con người được sinh ra từ sắc dục, đó là con đường sinh tử luân hồi, cho nên ta phải lấy nó làm đối tượng quán chiếu. Nó là con đường đưa đến đau khổ cho ta và cho người. Ở ngoài đời, người ta thương yêu, cưới nhau, rồi sinh con đẻ cái, lo nuôi nấng cho con lớn khôn, rồi dựng vợ gả chồng cho nó. Cả một đời đau khổ! Vậy mà người ta cứ chạy theo sắc dục, tham đắm cái thân hôi thối, bất tịnh này. Quả là vô minh, quả là ngu si!

Trong Kinh Tứ Niệm Xứ có dạy: “Trên thân quán thân” nhưng đây là dạy chung chung, người tu tập chưa nắm vững. Thí dụ, Phật dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu của mình” mà mình không biết lúc nào khắc phục tham ưu, lúc nào khắc phục bất tịnh.

Ở đây, chúng ta xả cái tâm sắc dục, tâm luyến ái bằng cách đặt niệm trước mặt. Tức là trên thân của ta, quán thân mình và quán các pháp bất tịnh và dùng câu pháp hướng nào để phá vỡ cái nào mà ta đang bị vướng mắc, như câu pháp hướng mà tôi phải trình bày ở trên.

Tóm lại muốn xả tâm ly sắc dục thế gian thì ta phải siêng năng trau dồi Tâm Xả của ta hàng ngày, không được biếng trễ thì mới xả được. Như tôi tu tập ngày nào thì biết ngày đó, chúng ta tinh tấn, chứ có phóng giật theo nó. Nghĩa là luôn luôn tinh tấn phòng hộ 6 căn, luôn phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành, ý hành, chặt chẽ.

Nếu pháp hướng là ý thức thì phải có đối tượng, nghĩa là phải cụ thể thì mới có kết quả. Nếu pháp hướng mà trừu tượng thì tu tập nhiều năm cũng không có kết quả. Ví dụ, như ta ngồi quán thây ma, bộ xương trắng, nhưng thực tế không có thây ma và bộ xương trắng trước mặt, chỉ do tâm ta tưởng tượng ra. Vậy đề mục đó là trừu tượng.

Nhưng ta dùng pháp hướng để nhắc tâm, nghĩa là ta áp dụng pháp hướng đó đúng cách. Còn trước mặt có hơi thở ra vô là ý thức, chứ không phải tưởng thức, các bạn phải cẩn thận áp dụng trong trường hợp này. Khéo dùng tưởng mà cứ cho là ý thức, dùng lẫn lộn ý thức và trừu tượng thì không có kết quả và đưa đến thiền sai.

(01:57:43) Quán Thân Bất Tịnh có mục đích đối trị lòng ham sắc dục, chứ không phải để chán đời, tự hủy diệt mình. Phải sáng suốt đừng để cho những dục vọng làm mờ mắt, lấy giả làm chân, lấy xấu làm đẹp.

Đừng hời hợt nhìn bên ngoài mà phải nhìn sâu sắc nhìn thẳng vào bên trong, phải thành thật thấy thân bất tịnh, thấy thối nói thối, thấy thơm nói thơm. Đừng tự ái, đừng thiên vị chỉ một mực tôn thờ sự thật. Dù sự thật ấy làm cho ta đau lòng, buồn tủi, phải kiên nhẫn, phải bền tâm, bền trí. Đừng thấy khó mà ngả lòng, đừng thấy đường dài mà lùi bước. Ở đời không có công việc gì tốt đẹp mà chẳng gặp khó khăn. Một nửa sự thành công là ở lòng kiên nhẫn, gan dạ, bền chí. Nếu chúng ta có đủ ba đức tính trên sẽ nhất định thành tựu tốt đẹp trong pháp Quán Thân Bất Tịnh này.

Như các bạn đã biết nguyên nhân của buồn phiền, khổ đau là do luyến ái trong tất cả các hình thức: như nhà cửa, con cái, vợ chồng, anh em, tài sản. Nếu chúng ta muốn vượt khổ đau, chúng ta phải từ bỏ luyến ái, không chỉ luyến ái cái thân bất tịnh này, mà với của cải, tài sản. Đó là sự thật, chân lý, là bài học mà cái chết cho biết.

Luyến ái cung cấp cho chúng ta nhiều thứ để thỏa mãn cảm xúc và dẫn ta vào con đường trần tục, nhưng cuối cùng luyến ái đó trở thành nguyên nhân tất cả khổ đau của chúng ta. Nếu không học bài này, cái chết có thể tấn công và khủng bố chúng ta, sự việc này đã được Đức Thế Tôn phơi sáng rõ ràng. Ngài dạy: cái chết sẽ mang con người đi khỏi, dù người đó có cố bám lấy con cái và của cải hay thương tiếc cái thân bất tịnh này bao nhiêu đi chăng nữa. Giống như một trận lụt lớn cuốn sạch một ngôi làng đang ngủ.

Lời dạy này ngụ ý là nếu ngôi làng đó tỉnh thức và cảnh giác thì có thể tránh khỏi sự tàn phá của lũ lụt. Chúng ta hãy nhìn vào thế giới, ta có thể thấy con người đánh nhau như thế nào, chết chóc, thiêu đốt, ném bom, bắt cóc, cướp máy bay và đánh phá lẫn nhau. Tiêu diệt người đồng loại trở nên một trò giải trí hay để đùa vui. Toàn thế giới như một nhà thương điên. Con người đã quên đi hết đức tính tốt của đồng loại và để tư tưởng lời nói và hành vi tội lỗi ngự trị con người.

Rõ ràng không có chỗ trong tâm con người để trau dồi tư tưởng và hành vi thiện. Làm sao ta có thể tìm được hòa bình và hạnh phúc trên chiến trường mà người ta chiến đấu không ngừng để thắng hay thoát hiểm. Thái độ vô nhân đạo của con người đã gây nên hàng nghìn tang tóc không kể xiết.

Nếu bạn có thể hiểu được cái mong manh của đời sống và cái nguy hiểm của thế giới thì bạn có thể hiểu được ý nghĩa của việc đạt được các phương pháp quán niệm về thân bất tịnh. Bạn sẽ không còn chậm trễ trong cố gắng tìm tòi trạng thái hạnh phúc này.

Ngày nay, bạn chiến đấu để thoát khỏi khổ đau bằng phương pháp trần thế. Nhưng đó là trận thua, sẽ chỉ có thất bại. Tuy nhiên nếu bạn cố gắng quét sạch khổ đau bằng cách phát triển các pháp quán, bằng cái thấy của Chánh Tri Kiến, trong mục đích sống hàng ngày của mình thì hi vọng rằng bạn có thể tìm thấy sự thanh thản, an lạc và vô sự ngay trong cuộc đời của chính bạn.

4-4- QUÁN THÂN BẤT TỊNH - VỀ TRI KIẾN THÂN NGƯỜI

(02:01:18) Sau đây là phần Quán Thân Bất Tịnh về tri kiến thân người

Sau đây là phần Chánh Tri Kiến về thân người.

Nhờ Tứ Niệm Xứ, chúng ta thấy rõ sự thật của đời đó là Thân bất tịnh - Tâm vô thường - Pháp vô ngã - Thọ thì khổ.

Thấy rõ được sự thật đau khổ ấy rồi, chúng ta phải ra công cố sức làm thế nào để thoát ra khỏi móng vuốt nguy hiểm của chúng. Muốn thế, Chánh Tri Kiến và Chánh Tư Duy là điều kiện trên hết trong công cuộc giải thoát của chúng ta.

Ngoài đời cũng như trong đạo mỗi người muốn đạt được kết quả tốt đẹp trong đời mình thì phải luôn luôn gia công gắng sức. Nhất là người tu hành mà kết quả là xuất trần, cái cứu cánh là an vui vĩnh viễn, thì sự gia công cố gắng lại càng phải bền bỉ, dẻo dai vượt bậc mới thành tựu được.

Hơn ai cả đức Phật hiểu rõ được sự quan trọng của Chánh Kiến nên đã dạy bảo chúng ta: trước khi đi sâu vào đạo phải chuẩn bị những phương tiện cần thiết, phải tỏ rõ một thái độ quyết tâm. Quyết tâm xa lánh điều dữ và thực hiện những điều lành. Đó là ý nghĩa của người có Chánh Tri Kiến.

Thế nào là Chánh Tri Kiến? Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; kiến là thấy, nhận biết. Chánh Kiến là thấy, nghe, hay, biết, một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người có Chánh Kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc.

Người có Chánh Kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Ví dụ, thân người là bất tịnh, là hôi thối, nhớp nhúa nên người có Chánh Kiến biết là vật dối, cảnh giả, thì mắt không chăm chú nhìn vào thân bất tịnh, tâm không ham đắm thân bất tịnh. Còn khi biết rõ cảnh vật thật, lời chân thật, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật, làm cho đèn trí tuệ sáng ngời, không có một vật gì làm lu mờ ngọn đèn trí tuệ của Chánh Tri Kiến.

(2:03:49) Như các bạn đã biết Chánh Kiến là pháp hành đầu tiên trong 8 pháp hành căn bản của người tu học từ phàm phu cho tiến đến bậc Thánh của Phật giáo. Nói rộng ra, Chánh Kiến chính là tư tưởng chỉ đạo đúng mọi hành động và việc làm nhằm đạt kết quả sáng chói khi có đủ phương pháp đúng. Ai sống mà không hành động, hoạt động để đem lại kết quả của bao nhiêu hi vọng, hoài mong mà mọi người ở trong đời muốn thực hiện để cuộc đời ngày càng quang đãng tươi đẹp hơn lên!

Ước mơ và hành động không thể tách biệt. Nhưng ước mơ là bao gồm đã có suy nghĩ, có tính toán, có tư tưởng. Ước mơ mà không có tư tưởng đúng chỉ đường thì thành ra tư tưởng hão huyền, không bao giờ thành tựu được. Như vậy, bất cứ ai có sự hiểu biết, chắc chắn trước khi làm một công việc dù lớn hay nhỏ cũng đều phải có suy nghĩ cẩn thận.

(2:04:46 ) Suy nghĩ cẩn thận thì nặng về biện pháp thực hiện, nhưng điều đó lại nói lên tính chất quan trọng của tư tưởng mà mình ôm ấp muốn thực hiện. Tư tưởng đúng đắn là tư tưởng thuận chiều nhân đạo, hợp với lợi ích chung, hợp với lòng người, mang tính nhân bản cao độ. Những nhà độc tài trong lịch sử nhân loại, họ đã gieo bao nhiêu tang tóc khổ hạnh cho đời sống vạn triệu sinh linh, chính vì họ có những tham vọng quá điên cuồng, nó được điều động bởi một tư tưởng sai lầm quá mức.

Từ nguyên sơ đạo Phật đã long trọng đưa ra hai tiêu chuẩn tối quan trọng để xác định thế nào là một chân lý, một tư tưởng đúng đó là khế lý và khế cơ. Tư tưởng sáng tỏ đúng đắn là bản thân của nó, nhưng nó muốn là chân lý được mọi người hay đa số chấp nhận thì nó phải được thuyết minh sao cho mọi người thấu hiểu chắc chắn. Như vậy chân lý luôn luôn đòi hỏi mang tính chất hiện thực, phải lấy hiện thực làm hồng huyết cầu cho chân lý.

Giáo pháp của đức Phật là những chỉ dẫn sáng tỏ về việc khai mở trí giác ngộ, đạt đến chỗ an vui, lâu bền. Nhưng nếu muốn có kết quả chắc chắn thì cần bộ môn giáo pháp phải được người áp dụng biết cách áp dụng, biết cách làm chắc chắn, nhờ ở khả năng lãnh hội trọn vẹn. Trong nhiều lần đức Phật đã long trọng nói đến chất quan trọng của việc thấu hiểu này: “Theo ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”.

Biết bao nhiêu Tu sĩ khác đạo sau khi đến vấn đạo rồi xin trở về nương tựa nơi đức Phật. Đức Phật không dễ dàng chấp nhận mà Ngài bảo họ phải suy nghĩ chín chắn đi đã và sau khi chấp nhận vào tăng đoàn, người ấy còn phải sống biệt trú 4 tháng. Đó là biện pháp rất hay. Vì vị kia rất có thể bị kích động bởi tình cảm sôi nổi, xung đột tình cảm, mà theo đạo Phật, nhưng chưa hiểu rõ giá trị cao cả của những lời dạy. Bởi vậy ông ta phải suy nghĩ cặn kẽ đã trước khi xin đức Phật xuất gia.

Tính chất quan trọng của Chánh Kiến trong chương trình giác ngộ rất lớn lao, vì thế trong 8 cách để hành trì giác ngộ, Chánh Kiến phải là ánh sáng đầu tiên.

(02:07:00) Đương thời khi đức Phật còn tại thế, chặng đường tư tưởng vô cùng phức tạp với nhiều chủ thuyết, học phái giăng mắc, ảnh hưởng khắp các đường ngang ngõ tắt trong mọi sinh hoạt vật chất, tinh thần của dân thành thị, thôn quê ở Ấn Độ.

Từ trước cho đến thời đức Phật và mãi cho đến về sau này, dân tộc Ấn Độ nổi tiếng là một dân tộc tham chuộng triết lý, tham chuộng những suy tư, tư tưởng bay bổng, những thế giới siêu hình. Họ có một trí óc tưởng tượng vô cùng phong phú. Đó là mảnh đất thuận tiện cho trăm hoa đua nở, trong đó nổi bật ảnh hưởng và có tính chất truyền thống. Đó là chủ thuyết khoái lạc và chủ thuyết khắc khổ.

Chủ thuyết khắc khổ trở thành một sinh hoạt tâm linh sâu đậm trong của người Ấn Độ. Họ áp dụng một biện pháp tu khổ hạnh rất khốc liệt, kiên cố, bắt thân xác cảm quan, cảm giác phải gánh chịu bao giày vò, khổ ải, họ phá hủy mọi cảm giác, có lẽ phải ăn trái đắng mà không được uống nước. Cứ làm mãi như thế để vị giác không còn phân biệt được vị đắng nữa và mọi vị khác. Họ cho rằng giác quan là kẻ gây tội lỗi chính, cần phải trừng trị giác quan, cảm thức để chuộc mọi tội lỗi. Hành hạ thân xác, càng chịu đựng đau khổ bao nhiêu thì càng được ân sủng bấy nhiêu dành cho họ ở cõi Trời sau khi họ bỏ thân này.

Ban đầu đức Phật, Thái tử Tất Đạt Đa sau khi xuất gia, Ngài cũng đã hăng say tu theo phương pháp khổ hạnh đến nỗi ngày chỉ ăn vài hạt dẻ, một nắm cơm nhỏ, khiến cho sức khỏe hao mòn khủng khiếp, chỉ còn da bọc xương. Cuối cùng Ngài té xỉu và suýt bỏ mạng bên bờ sông, may đâu gặp được một nữ nhân, dâng bát sữa bò và Ngài dùng và tỉnh lại. Từ đó Ngài bừng tỉnh, thấy rằng con đường ép xác khổ hạnh bấy lâu mà mình quyết chí theo đuổi không thể nào đưa đến giải thoát chân thật được.

Giải thoát hoàn toàn phụ thuộc vào tâm linh, mà thân xác là đền thờ của tâm linh, ta không thể cạn cợt, nếu không nói là quá dại dột đi phá hủy thân xác, qua việc trấn áp thô bạo mọi khả năng hoạt động bình thường của giác quan. Giác quan chính là không hề là thủ phạm chính yếu trực tiếp của tội lỗi. Tội lỗi chính là phần chủ chốt bên trong đó là ý thức ô nhiễm.

(2:09:24) Đương thời cũng có nhiều lần Tái-ly-thiền-tử (tên riêng) cử các tay lý thuyết gia cự phách của họ đến tranh luận với đức Phật, về việc ai là thủ phạm gây tội lỗi. Họ quyết liệt chủ trương rằng chính thân xác là kẻ trực tiếp đầu tiên vào cuối cùng gây nên bao tội lỗi, làm ô uế tinh thần. Đức Phật bác bỏ cái học thuyết vô cùng nông cạn đó bằng cách chỉ dạy cho họ thấy rõ tâm ý mới chính là kẻ gây nên tội lỗi, kẻ chủ chốt đầu sỏ. Đó là một chân lý một sự thật mà sau khi chín chắn suy nghĩ, họ không thể mà không chấp nhận một cách toàn diện được.

(02:10:04) Chủ thuyết khoái lạc thì cho rằng thân xác, cảm giác là con thuyền phải lướt trên dòng sông khoái lạc. Con thuyền mục nát, tan rã, chìm trong dòng sông khoái lạc là vinh quang. Đức Phật chỉ ra rằng đó là đoạn diệt luận, là u mê, khắc tuyệt đời sống cao cả của con người tối linh trong vạn vật.

Con người là một kỳ quan của vũ trụ. Ngoài tất cả ăn ngủ thông thường, con người còn hàm chứa một đời sống cao cả bên trong, một khả năng sáng tạo vô cùng kỳ diệu. Nếu cho rằng con người chỉ phản xạ theo thói quen ăn ngủ tầm thường, rồi chết thì như thế chính là một chủ trương giảm lược khóa, trơ trụi hóa con người. Con người chỉ còn là một bó lúa đã bị đập tơi bời, đã bị rụng hết hạt, chỉ còn là bó rơm úa, quăng đi mục rã như muôn ngàn sắc lá đìu hiu mà thôi.

Ngoài ra, một số tôn giáo thần quyền cũng không ngớt phóng ra những ảnh hưởng tàn phá, làm thui chột khả năng sáng tạo độc đáo hiếm có của con người. Thế lực tàn bạo của thần quyền, thường trực làm đui mù linh thức sáng tạo của con người. Vì nó dìm tâm linh họ vào đường hầm nô lệ, cụt ngõ.

(2:11:15) Thời trung cổ Châu Âu, hệ thống kinh luyện học và thần học giăng lưới khống chế và xua đuổi mọi suy nghĩ hỗn hào con người đối với trật tự và quyền uy tinh thần, đổ khuôn sẵn có. Nhưng con người là chỗ mọc ra suy tư, chỗ mọc ra vấn đề, do đó dầu có kìm kẹp khống chế bao nhiêu đi nữa, cuối cùng hệ thống thần quyền kia cũng bể nứt. Những cơn lụt tư tưởng lại trào vọt ra, lan tràn khắp đường phố tinh thần.

Ở Việt Nam ta, dưới triều vua Tự Đức cũng vậy. Triều đại này, từ vua tới một số tông quan đại thần cốt cán, đều là những thành phần cận thị, trí thức. Họ an nhàn đóng cửa trong chính sách bế quan tỏa cảng, chính sách đó đã đưa lại bao tang thương, bi thảm cho dân tộc trong suốt gần 100 năm. Nhìn sâu và có nhiều suy nghĩ chín chắn về thực trạng bế quan tỏa cảng, ta thấy đó là căn bệnh cố chấp trầm trọng. Cố chấp bao giờ cũng là mầm gieo tai họa khắp Đông Tây Kim Cổ.

Từ hậu quả bi thảm của những tà thuyết trên, ta thấy Chánh Kiến là gia sản quý giá tuyệt vời mà phải bao nhiêu công sức mới xây đắp nổi. Nhân loại đã vượt qua những chặng đường tiến bộ vượt bậc lẫy lừng. Soát xét lại ta thấy đó chính là nhờ ở những hiểu biết đúng mức, chân thật, biết tỉnh táo, lắng nghe, biết phân biệt, không cố chấp, không lọc mọi sự kiện qua cái dây trực quan cố chấp, dày đặc, hắc ám của mình.

Trong Phật giáo, sự kiến chấp là một trở ngại đầy nguy hiểm trên đường tu tập giải thoát. Giới luật là pháp môn của đức Phật, dạy đạo đức làm người, làm Thánh, muốn giải thoát mà sống không đúng đạo đức làm người, làm Thánh thì giải thoát cái gì?

(2:13:02) Nói đến đạo đức tức là nói đến sự giải thoát cho mình, cho người, nghĩa là người có đạo đức là người không làm khổ mình, khổ người. Giới luật của Phật dạy người tu hành giải thoát là dạy đạo đức chứ không có dạy ngồi thiền, Niệm Phật, tụng kinh, cúng bái, sám hối, làm phước, đặt chuyện mê tín.

Vì ngồi thiền, Niệm Phật, tụng, kinh, sám hối, làm chuyện mê tín bố thí là còn trong phước Hữu Lậu. Mà phước Hữu Lậu thì còn làm khổ mình, khổ người. Dù phước Hữu Lậu giàu sang tột đỉnh như Thạch Sùng, uy quyền thế lực như vua Chúa, cũng vẫn còn làm khổ mình, khổ người.

Có những phái tu họ lại chấp cứng vào những điều trên. Họ khăng khăng chấp chặt, cố giữ y chang những gì mà thời tại thế đức Phật cấm chỉ hoàn cảnh đó.

Họ tưởng rằng cứ hễ y chang mọi chi tiết về tụng kinh, bái sám, làm phước, như vậy là giải thoát. Những phái tu đó còn biến chế giới luật, thêm vào giới luật những giới mà họ thấy là thích hợp với tông phái của họ, rồi bỏ đi những học giới nhỏ nhặt mà đức Phật đã đề ra, làm cho người sau không biết đâu là giới luật của Phật. Đó cũng là một kiến chấp nặng nề của những tông phái hiện bây giờ.

Do con đường tu tập của đạo Phật, giới luật là trí tuệ, tri kiến giải thoát của người Tu sĩ. Ngoài giới luật ra người Tu sĩ đi tìm trí tuệ, đi tìm tri kiến giải thoát, thì không bao giờ có. Cho nên người Tu sĩ đạo Phật phải chấp nhận giữ gìn giới luật, tức là tu tập trí tuệ, tri kiến giải thoát. Trong kinh Trường Bộ, đức Phật dạy: “Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh”. Vì thế, người Tu sĩ có giải thoát nhất định có giới luật nghiêm chỉnh. Người Tu sĩ giới luật nghiêm chỉnh nhất định có giải thoát.

Thiền định của đạo Phật là một thứ thiền định giải thoát vô lậu, chứ không phải thứ thiền định ngồi lim dim như con cóc, như gốc cây, ức chế thân tâm, như đau nhức như ai bẻ giò bẻ cẳng, đầu căng thẳng như đeo đá, khó thở vô cùng. Tu tập khổ sở mà chẳng được những gì, chỉ được ba tấc lưỡi, lừa đảo người, qua sách vở mà thôi. Nhìn lại chỉ phí uổng cuộc đời của mình, chẳng ích lợi gì cho mình, cho người. Đó cũng là một kiến chấp nặng nề của những người tu theo đạo Phật, tu hành chẳng giải thoát gì cả, chỉ uổng phí một đời, thật đáng thương vậy!

(02:15:27) Có những người chê bai tri thức thế gian, những kiến thức về nhiều mặt. Thực thế, nhờ có trình độ học thức khá cao mà ta đọc, nghiên cứu kinh điển, ta lãnh hội tới chỗ sâu sắc của nó. Từ đó, mới phát khởi một niềm tin mãnh liệt đối với chánh pháp và cũng từ đó phát ý nguyện tu tập cho giác ngộ. Dĩ nhiên, mọi thông minh, thế trí không đưa đến đạt đạo, nhưng ở chừng mực nhất định, nó vẫn giúp ích, hữu hiệu cho ta đi vào vương quốc của Định Vô Lậu.

Từ hiểu biết với tư cách trong sạch là Chánh Tri Kiến, ta đi vào nội tỉnh, thường trực, quán chiếu theo sự chỉ dạy chiếu sáng của Chánh Pháp, làm cho tâm trí ngày một sáng ra trên ánh sáng giác ngộ. Thì đó cũng là một phương pháp tu tập có tính chất cốt lõi.

Đã tin tưởng vào ánh sáng giác ngộ hùng vĩ, cao cả của đức Phật thì ta một lòng theo sự chỉ dạy của Ngài mà hành trì thâm hậu. Vấn đề tối quan trọng là phải lĩnh hội Chánh Pháp, hiểu Chánh Pháp bằng quán chiếu nội quán về thân bất tịnh sâu đậm. Vì chánh pháp nhằm thuyết minh cho ta biết mọi giả tưởng, mọi hữu vi là duyên Sanh, giả hợp, từ đó dễ dàng cắt đứt mọi đắm nhiễm.

Nhiều người không có cơ hội tốt để truy luyện khả năng tiếp nhận nguồn Chánh Tri Kiến vĩ đại mà đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều bài kinh. Họ chỉ chấp chặt vào vài thực tướng, rồi bằng lòng hân hoan với mớ hiểu biết ẩm mốc, cũ kỹ, mà cứ tưởng rằng mình hiểu giáo lý.

Trên hành trình tu học giáo Pháp, ta phải mãi mãi hăng say, để lại bên đường mớ kiến thức hẹp hòi, mớ thực tướng khô úa, mà đi sâu vào chân lý, ý nghĩa của lời dạy thường ẩn phía sau văn cú. Trên ý nghĩa cao cả, sâu sắc này, thì Chánh Kiến là không chấp thường, không chấp đoạn, mọi hiện tượng đều là vô thường, không có một cá tính, chất thật vĩnh viễn, từ vô số kiếp muôn đời, mà là thay đổi tinh thần và ý nghiệp.

Vì vậy để tinh thần tiếp nối trò chơi thay hình đổi dạng đó, bên đời nhiễu mộng mà ra. Hiểu thấu chân lý vô thường trong sự vật, nên không còn ngây thơ tin tưởng vào quyền năng sáng tạo vu vơ của đấng siêu nhiên nào cả.

(02:17:46) Cho nên ai cũng học Chánh Kiến, biết rất rõ Thập Ác và Thập Thiện, nhưng mấy ai sống đúng với Thập Thiện và tập loại trừ Thập Ác. Ai nói Chánh Kiến cũng được, nhưng sống đúng Chánh Kiến thì không ai làm được. Đây là những người đã có Chánh Kiến mà còn sống chưa được, huống là những người còn đang sống trong Tà kiến.

Chánh Kiến có hai giai đoạn tụ tập:

Giai đoạn học tập Chánh Kiến để loại trừ Tà Kiến;

Giai đoạn tu tập Chánh Kiến là giai đoạn áp dụng Chánh Kiến và đời sống hàng ngày - Định Vô Lậu và Pháp Hướng tâm.

Học Chánh Kiến thì thấy dễ nhưng tu tập phải đúng pháp, đúng bài bản, giáo trình thì mới có hiệu quả. Cho nên chúng tôi nói: chỉ khi nào tâm ly dục, ly ác pháp thì mới có Chánh Kiến.

Đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy có 10 pháp ác và ba cội nguồn gốc ác. Hàng ngày mọi sự việc xảy ra chúng ta đều quan sát nơi Thân - Thọ - Tâm - Pháp. Nếu có 10 pháp ác xảy ra trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp thì chúng ta phải biết được không? Nếu không học thì chúng ta không biết, còn đã học thì chúng ta đều biết mà biết như vậy có phải là Chánh Kiến không? Đức Phật đã dạy thấy biết như vậy là Chánh Kiến rõ ràng.

(02:18:59) Thưa các bạn! Chánh Kiến có khó biết không? Chắc là không, phải không các bạn? Nhưng các bạn phải nên lưu ý: gốc ác pháp đó là tâm tham- sân- si. Tâm tham- sân- si có một nghiệp lực rất mạnh, cho nên dù các bạn đã có Chánh Kiến nhưng các bạn không dừng lại được gốc tham- sân- si thì cái thấy Chánh Kiến của các bạn sẽ thành Tà Kiến. Ví dụ, như các bạn đã biết thân là vô thường, thân là bất tịnh, nhưng vì lực tham thúc đẩy, các bạn cưng dưỡng thân, bồi bổ cho thân, ai đụng vào thân các bạn ăn thua đủ.

Nhưng đến khi thân già, chết, hoại diệt rồi thì còn đâu là thân của ta, lúc đó mới hối hận, nhưng đâu còn được nữa. Năm tháng không lo tu tập, chỉ lo cưng dưỡng thân, đến khi thân già tàn tạ thì mới hối hận. Như vậy là Tà Kiến, các bạn ạ!

Muốn thấy Chánh Kiến và hành động đúng Chánh Kiến, thì các bạn càng ngày phải trau dồi Pháp Hướng tâm để đoạn trừ nguồn gốc của các ác pháp: “Thân này là bất tịnh, hôi thối, nhớp nhơ, uế trược. Phải xa lìa tham đắm sắc dục. Ta phải xả bỏ, từ khước, thoát ly, ra khỏi, từ giã, không nên để tâm vướng mắc nó nữa”. Khi tu tập Pháp Hướng tâm có hiệu quả thì lúc bấy giờ Chánh Kiến ở đâu thì tâm ly dục, ly ác pháp ở đó, có giải thoát liền. Nếu Pháp Hướng chưa có hiệu quả thì dù có Chánh Kiến biết đúng, nhưng tâm không ly dục, ly ác pháp thì vẫn là Tà Kiến, các bạn ạ.

(02:20:30) Lấy cái nhìn của đôi mắt Chánh Tri Kiến, xem nơi thân thể chỉ là một giống nhơ nhớt, do nhiều chất ô uế, hòa hợp. Chúng ta cảm thấy nó là hiện tượng của muôn điều khổ sở, buộc ràng, không có mảy may chính đáng gọi là vui thú nên có câu “thân vi khổ bổn”. Và thân thể là một chỗ nhơ nhớp có tất cả sự nhơ nhớp, cùng sự rời rã, tan giã nát, nên có câu “thị thân bất tịnh cách nang xú uế” và “thị thân vô thường sắc vi tán diệp”.

Thử nghiệm xem, những sự thống khổ trong thế gian từ đâu mà có? Phải chăng do nơi thân thể? Các sự thống khổ như là nóng, lạnh, đói, khát, mỏi, đau, trái ý, nghịch lòng, đều thuộc về nơi Thọ mà Thọ có ra là do lục căn tiếp xúc với lục trần. Thân thể là chỗ lưu của lục căn nên sự khổ Thọ lấy thân làm gốc.

Vả lại, đời không gì khổ bằng lúc sinh, đau đớn kêu la; khi già lụm cụm, run rẩy; lúc ốm đau, yếu đuối, bứt rứt; khi chết giãy giụa, hãi hùng. Bốn việc đại khổ ấy lại là cái khổ: sinh-trụ- hoại- diệt của thân thể.

(02:21:42) Xưa, bốn thầy Tỳ kheo cho rằng: ở đời sự sợ sệt, nóng giận, sự dâm dục, cùng sự đói khát là khổ nhất, đã bị đức Phật quở trách vì chưa xét đến thân là gốc của muôn điều khổ. Không thân thì các sự khổ, sự giận, sự dâm, đói, từ đâu mà có. Thấu đáo thay cho câu “thân vi khổ bổn” và câu “thân như oán thù”. Sự nhơ nhớp hôi hám của thân thể không sao tả xiết. Người ta không nhớ quá khứ, không nghĩ đến vị lai, chỉ rõ nơi hiện tại và dùng nào là quần áo, phục trang, nào là xạ hương, xông ướp, để tự làm mê hồn mình trước lòng hôi tanh bất tịnh.

Thử nhìn các chất từ nơi 9 lỗ cống trong thân chảy ra, tự mình cũng đã quá gớm ghiếc của mình, chứ đừng nói đến với thân của người khác, nên trong kinh có câu “chủ khổ lưu bất tịnh”. Làn da mỏng là một cái đẫy, mà trong đó đầy những máu, mủ, thịt, xương, đờm, dãi và đại tiểu tiện, còn gì ghê gớm bằng khi một người bị lột cả da và bị phanh xé. Câu “cách nang xú uế” đã từ miệng Phật thốt ra để cảnh tình kẻ say đắm.

(2:23:00) Thân nhơ nhớp hiện tại từ đâu mà có? Từ ngày trước, điểm tinh giọt huyết hòa lẫn, trong khi nghiệm thức vọng tưởng, mê cuồng của với sự giao hợp của cha mẹ mà kết thành. Sự nhơ nháy của tinh huyết, sự đáng gờm của bào thai thật không bút mực nào tả xiết.

Cho đến sau này nghiệp thức đã xa lìa, thân thể sẽ xanh cứng, sẽ phình trương, sẽ nứt nẻ ra để làm ổ cho đám dòi, làm chỗ cho ruồi, kiến bu đậu và để tiết ra những chất nhơ nhớp nhất và hôi tanh nhất. Lúc mới kết hợp, vọng tưởng, tinh huyết bất tịnh; khi to lớn đờm dãi, phân đái, máu mủ, bất tịnh; lúc chết tan rã hôi tanh, bất tịnh. Như vậy, thân người là một vật bất tịnh nhất trong các vật bất tịnh. Từ đầu đến cuối, khi mới thành hình, cho đến lúc hư mất hãy còn đều là bất tịnh.

Trong thân nhơ nhớp, bất tịnh, đáng ghê tởm nhất ấy còn có một sự mà nếu thấy hiểu người ta sẽ không còn ham muốn gì về thân thể. Từ lúc nào đến lúc nào, bao giờ cũng giáp ranh đến chỗ tiêu diệt, đang trẻ trung thấm thoát đã già nua, từ cái mạnh mẽ, tươi tắn, không bao lâu đã đổi thành yếu đuối, mệt nhọc nhăn nheo.

Trong quãng thời gian ấy, không biết bao nhiêu là sự thay đổi vô thường: thân năm trước không phải là thân năm nay, thân tháng trước không phải là thân tháng tới; thân ngày nay không phải là thân ngày hôm qua; cho đến từng giờ từng phút từng sắc na, cũng đã đổi khác. Đã có đổi thay, tất phải có lúc tiêu diệt, không ai có thể dừng được sự thay đổi nhanh chóng của thân và không có gì đảm bảo được cái hoại cả hấp tấp mà mọi người đều sợ cái chết.

Mạng sống không khác- chỉ mành treo chuông, chỉ trực đứt dây là rớt bể. Nên có câu “nhân mạng tại hô hấp”. Một hơi thở ra mà không hít vào tức là đời sống của thân không còn, giờ tan rã sắp đến. Than ôi, thân là cội khổ! Thân là bất tịnh! Thân là vô thường! Có gì đáng sợ, có gì đáng chán bằng thân. Ở nơi thân không có mảy may chi có thể gọi là đáng trìu mến, đáng thương tiếc.

(02:25:18) Có người thấy rõ thân là khổ sở, nhơ nháy, nhờm gớm, hôi tanh, vô thường như trên rồi quá sợ, quá nhờm (gớm), bèn vội vàng tìm cách xa lìa mau chóng - tự tử. Mấy kẻ ấy lầm to, họ tự tử để chóng ra khỏi thân mà họ không biết rằng chính họ đang bồi đắp cho thân được chắc chắn lâu dài, vì thân có ra là do nghiệp nhân, thân là quả của nghiệp. Muốn khỏi quả, phải trừ nhân. Nay nhân cứ tạo cứ gieo mà muốn đừng có quả - quyết hẳn không thể được. Không khác nào người ta sợ bóng mình, muốn bóng mình không hiện mà cứ chạy trong ánh nắng.

Khi Phật còn tại thế, đã có một người có ý tưởng sai lầm này. Đó là ông Phước-Tăng- Tỳ kheo, ghét thân già yếu, đau khổ, toan thoát thân bằng cách treo cổ trên bờ suối. Bèn bị Ngài Mục Kiền Liên quở trách là khờ dại, cùng giãi bày Chánh ý cho nghe. Sợ già đau, sống chết, mà vội quyên sinh, thật là trở lại gây sự già, đau, yếu, sống chết. Người ta có thể vứt bỏ thân hiện tại, song không thể rời bỏ muôn ngàn thân sẽ ở quả vị lai, khi nghiệp họ vẫn còn. Nghiệp họ còn thì khi thân này hư hoại tất tạo thành thân khác. Có thân khác tất phải có già, đau, sống, chết, khổ sở.

(02:26:41) Như vậy muốn thoát hẳn khổ lụy vì thân thể, phải đoạn trừ cội gốc hiện ra thân, tức là phải dứt bỏ đến cùng nghiệp nhân, cái gốc đã trừ thì cái ngọn là thân, tất nhiên sẽ phải thu mục. Nhân đã không còn thì quả cũng tự mất. Thân sau không còn chiêu cảm thì cái khổ lụy không nương đâu mà có, tức là an vui giải thoát.

Cái thân bất tịnh này, nó đẹp, nó đáng ưa, cũng chỉ là phù hợp với tình trạng ô nhiễm. Xinh đẹp đối với người người chưa chắc đã xinh đẹp với loài khác. Nàng Tây Thi, người đời ca tụng là đẹp, là đáng yêu, mà chim gặp chim sợ bay xa, cá thấy cá sợ lẩn trốn. Nên thân nàng Tây Thi trác tuyệt là đẹp, đáng yêu, thì sao chim cá lại sợ hãi? Phải chăng sự đẹp ấy chỉ do là sự đồng nghiệp của loài người. Cho đến thân thể hình dáng, tác dụng chỉ có với con người thường của mình.

Một mỹ nhân cực kỳ lộng lẫy nếu ta dùng quang tuyến mà xem thì mỹ nhân không còn, mà chỉ hiển hiện là bộ xương hồng trắng và nếu ta dùng kính chiếu đại gấp trên ngàn lần thì ta chỉ thấy đó là một đống da thịt rời rạc cách nhau từng khoảng. Nếu mọi người đều mang con mắt quang tuyến dùng kính chiếu đại gấp trên ngàn lần thì thử hỏi giữa đây còn có cái gì thật là thân như trước.

Đối với con mắt Tam Minh của những bậc Thánh A La Hán cũng thế; với người thường, là thân thể xinh đẹp; với các Ngài, thân thể còn không có, huống nữa là xinh đẹp. Chẳng phải là duyên cảnh khác mà là chỗ thấy biết có sai khác. Cũng đồng một cảnh, song vì thức trí khác nhau nên chỗ nhận thấy không đồng. Nên các bậc Thánh A La Hán không còn sanh lòng luyến ái nơi thân, không còn có niệm thân mình, thân người. Vì tất cả đồng đều là Ngũ ấm, Lục căn, Lục trần.

Dưới Huệ nhãn Tam Minh của các Ngài và hơn nữa đều đồng là tứ đại, giả hợp. Da, thịt, răng, xương, tóc, móng, toàn là Địa đại. Tinh, huyết, đàm, nước mắt, mồ hôi toàn về Thủy đại. Nhiệt độ thuộc về Hỏa đại, cùng với sự chuyển động thuộc về Phong đại. Tứ đại nếu trái ngược nhau thì thân thể làm sao thật có. Rõ biết thân thể là hư vọng thì cả thảy phiền não đều loại trừ, vì thân là căn bản của ái nhiễm.

Khi chúng ta hiểu được tính chất vô thường- vô ngã của con người, ta rút ra điều nhận xét trên và chúng ta có thể kết luận rằng: để thoát ra khỏi tình trạng ấy con người không cần phải quỳ lụy, cầu xin ở một đấng nào khác, mà do sự tự lực và hành động của mình. Chỉ có mình mới tự giải thoát cho chính mình được mà thôi. Con người chính là vị sáng tạo của đời mình, si mê thì con người tự làm cho mình đau khổ, nhưng khi biết mình mê mà tìm cách thoát ra khỏi cảnh mê thì con người chính là kẻ tự gây dựng hạnh phúc cho mình.

Đó là ưu điểm của con người, đó cũng là điều tin tưởng lớn của con người. Đứng về một phương diện thì thân phận con người thật đáng chán, nhưng đứng về một phương diện khác thì con người thật đáng phấn khởi. Chúng ta chỉ còn gia công tu tập thì thế nào cũng chuyển đổi được hoàn cảnh buồn thảm của chúng ta.

Cho nên đức Phật thường dạy: “Cảnh Ta-bà này cũng tức là cảnh Phật; người cũng là Phật” Hỡi các bạn! Nếu ai đã phát tâm tu chân thật, tu hành, thì hãy cố gắng thực hành pháp Quán Thân Bất Tịnh. Nếu chưa đủ phương tiện để thực hành pháp quán ấy thì cũng đừng bao giờ quên rằng: thân người không trong sạch, không có gì đáng say mê, đắm đuối để đến nỗi phải gây ra bao tai hại tội lỗi cho mình và cho người xung quanh.

(02:30:27) Như các bạn đã biết mọi hiện tượng của đời sống đều có ba đặc điểm là vô thường- khổ- vô ngã. Nghĩa là không có gì chân thật, vĩnh cửu, không có thực tế. Mỗi chúng sanh, kể cả thân người chỉ là một tổng hợp của hai nhóm yếu tố: (danh) tinh thần và (sắc) vật chất. Nếu phân tích chi li hơn thì thành năm uẩn. Tức là Sắc uẩn là nhóm yếu tố vật chất; Thọ uẩn là nhóm cảm thọ; Tưởng uẩn là nhóm ghi nhớ và tưởng tượng; Hành uẩn là nhóm dụng tâm và tạo tác; Thức uẩn là nhóm phân biệt.

Bốn nhóm Thọ Uẩn-Tưởng Uẩn-Hành Uẩn-Thức Uẩn bao gồm mọi yếu tố tinh thần trong con người, kể cả 6 trần ngoại cảnh thì có 12 sứ: sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và sáu ngoại và nội trần tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và nếu thêm 6 thức nữa là nhãn thức- sự phân biệt của mắt, nhĩ thức - sự phân biệt của tai, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, thì chúng ta có đủ 18 giới. Năm uẩn, 12 sứ, 18 giới đó chính là tất cả thế giới của loài hữu tình. Nếu đủ duyên thì hợp lại, nếu hết duyên thì tan rã. Cho nên đời sống của chúng ta là vô thường, khổ, vô ngã là vậy.

Bản chất đời là khổ đau, nếu chúng ta suy nghĩ sâu xa chúng ta phải đồng ý với khái niệm đời là đau khổ. Chúng ta đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần, ở bất cứ lúc nào. Ta có thể tìm được người nào trên thế giới này thoát khỏi được cái đau đớn thể chất và tinh thần không? Quả là khó khăn! Cả đến những người đạt tới thành bậc Thánh cũng không thoát khỏi cái đau đớn của thể xác, chừng nào mà họ còn mang sắc thân vật chất.

Nếu ai hỏi điều gì bất trắc nhất trên thế giới này, câu trả lời đúng phải là đời là điều bất trắc nhất. Tất cả mọi thứ ta làm trên cõi đời này là để thoát khỏi khổ đau và cái chết. Nếu chúng ta buông lung chỉ một giây cũng thừa đủ để chúng ta mất nó. Hầu hết tất cả những thói quen hàng ngày như làm việc, ăn uống, thuốc men, ngủ và đi lại là những phương cách và phương tiện áp dụng bởi chúng ta, kinh qua một vài lạc thú trần tục, thỏa mãn ham thích của chính mình.

Nhưng đằng sau đó chính những lạc thú ấy có thể biến thành khổ đau cho nên kho tàng hòa bình và hạnh phúc cao quý không cần thiết phải ở trong tay người giàu có, mà nơi con người từ bỏ trần tục.

(02:32:58) Tất cả mọi thứ trong đời sống của chúng ta đều phải thay đổi và không toại nguyện. Do đó đức Phật đã giải thích: chừng nào mà ta còn tham đắm dục lạc trần thế hay ham sống thì chúng ta không thể tránh khỏi khổ đau thể chất và tinh thần. Ham muốn rất quan trọng cho cuộc sống, khi cuộc sống hiện hữu- khổ đau không tránh được.

Nhiều người tìm kiếm một đời sống bất diệt, nhưng trớ trêu thay, những người đi tìm cái bất tử này lại thấy rằng đời đáng chán đến nỗi họ không biết làm gì để qua ngày. Theo đức Phật cái tham về bất tử này là một trong những nguyên nhân của tư tưởng ích kỷ và sẽ chết. Thật dễ dàng khi ta vui vẻ khi đời trôi chảy như bài ca, những người thật xứng đáng là người có thể mỉm cười dù đời đi vào vô vọng. Cái hạnh phúc bé nhỏ này có được bảo đảm bởi nhiều bất mãn, không thành công và bất toại.

Con người không tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời nếu không có xáo trộn, khó khăn, tai ương, thất vọng, sợ hãi và bất an, thua lỗ, bất hạnh, trách cứ, bệnh tật, già yếu và cả hàng ngàn điều không thích thú. Ngày đêm con người phấn đấu để thoát khỏi những tình thế bất hạnh này. Theo đường lối trần tục thì con người lại tự mình càng vướng mắc vào điều khó khăn khác. Khi ta tìm cách thoát khỏi một khó khăn, hữu ý hay vô tình, con người cũng tự mình tạo ra những khó khăn nhất định.

Chấm dứt những khó khăn ấy ở đâu? Muốn tồn tại chúng ta phải chấp nhận những khó khăn và khổ đau như vậy! Không phân biệt! Vì không có sự lựa chọn nào, khổ đau lúc nào cũng ở đấy không có cách nào có thể tránh được khổ đau và bất hạnh.

Khổ đau theo đức Phật là một trong căn bệnh chỉ có thể hoàn toàn khỏi được khi ta đối diện với chính khổ đau đó. Lão tử một đạo sư nổi tiếng Trung Hoa nói: “Ta đau khổ vì ta có thân xác, nếu ta không có thân thể vật chất này làm sao ta có thể đau khổ được” Khi bạn nhìn (thấy) con người đau khổ như thế nào trên thế giới này, bạn có thể nhìn thấy tình trạng thực sự của đời sống trần thế.

Tại sao ta phải chịu đau khổ như vậy? Ai là người chịu trách nhiệm về những khổ đau ấy? Theo đức Phật mỗi con người chúng ta chịu trách nhiệm về khổ đau của chính mình. Con người đau khổ ngày nay vì quá tham sống, đó chính là nguyên nhân của khổ đau. Phải mất 2500 năm các triết gia và các nhà tâm lý học mới hiểu được điều đức Phật nói là đúng.

(02:35:34) Một thi nhân nói rằng “Con thiêu thân bay vào lửa không biết mình sẽ chết; con cá nhỏ cắn lưỡi câu không biết mình bị nguy hiểm”. Nhưng dù biết rõ nguy hiểm của những lạc thú tội lỗi, trần tục, ta vẫn bám chặt vào chúng. Quả thật, ta khờ dại đến chừng nào! Phật giáo nhấn mạnh: đời người rất ngắn ngủi và ta nên lưu tâm tích cực hoạt động và lưu ý để được giải thoát. Chúng ta làm (việc) cực nhọc, đầu tắt, mặt tối để duy trì thân xác, nhưng có ngờ đâu thân này lại là bất tịnh- một đẫy hôi thối, ô nhiễm.

Vì không nhận ra được cái bản chất đích thực của thân bất tịnh, chúng ta phạm tội không kể xiết để thỏa mãn nhu cầu và tham ái của sắc thân. Chúng ta muốn nổi tiếng và danh vang để thỏa mãn lòng vị kỷ cố hữu của chúng ta. Chúng ta làm nghìn lẻ một sự việc để nâng cao cái gọi là uy tín và rồi khi chết đi với cái mục rữa của thân xác trong mồ hay xác thiêu, chúng ta ra đi, xác thân không còn nữa.

Toàn thể vũ trụ là một chiến trường rộng lớn, cuộc sống chẳng là gì cả mà là một cuộc đấu tranh vô ích. Nguyên tố chống nguyên tố, năng lượng chống năng lượng, nam giới chống nam giới, nữ giới chống nữ giới, người chống thú vật, thú vật chống người, người chống thiên nhiên, thiên nhiên chống người và chính trong phạm vi hệ thống vật chất là một chiến trường to lớn. Chính tâm con người là một chiến trường lớn nhất, con người không thanh thản với chính mình, không thể hòa bình với thế giới. Chiến tranh bên ngoài cứ tiếp diễn để che đậy sự thật chính từ nơi cá nhân: chiến tranh thực sự ở bên trong.

Lời cầu nguyện vang vọng nhất của nhân loại ngày nay là Hòa Bình. Nhưng không có hòa bình trên thế giới tan nát vì chiến tranh này, cho đến khi nào những mâu thuẫn của con người với chính mình mới chấm dứt. Dưới con mắt của đức Phật, chúng sinh run rẩy như con cá trên dòng sông sắp mắc cạn, khi bị kìm kẹp trong tham ái; vùng vẫy hết chỗ này đến chỗ kia để thoát; giống như con thỏ rừng bị mắc bẫy hay như mũi tên lặng bắn trong đêm tối.

Đức Phật nhìn thấy sự tranh giành lẫn nhau, cái vô nghĩa của hàng loạt sự cướp bóc: trong đó kẻ này ăn kẻ khác chỉ để rồi bị ăn bởi người khác. Chiến tranh gây ra do chính tâm con người và cũng chính tâm con người này tạo ra hòa bình và công lý, nếu như con người sử dụng tâm không thiên lệch.

(2:38:06) Tuy thân người là bất tịnh, nhưng nếu chúng ta biết lợi dụng thân này để tu tập và làm việc thiện thì lợi ích biết bao. Su-li-men- Hu-si-en nói rằng: “đời phải dẫn đến chỗ thực hiện những khả năng không kể hết, mà về thể chất, tinh thần, tâm linh con người có thể làm được. Nhân loại có khả năng làm nhiều việc vĩ đại vô vàn cao quý hơn”. Bạn sinh ra trong cõi đời để làm việc thiện và không thể để thì giờ trôi qua vô ích.

Nếu bạn lười biếng bạn là gánh nặng cho thế giới này. Bạn phải luôn luôn nghĩ đến việc nâng cao lòng tốt và trí tuệ. Bạn sẽ lạm dụng cái đặc ân trở thành một con người, nếu bạn không chứng tỏ bạn xứng đáng với nguyên nhân mà vì nó bạn được hưởng vị trí này.

Phí phạm cuộc sống con người trong nuối tiếc dĩ vãng trong lười biếng và trong và không lương tâm, chứng tỏ sự không phù hợp của bạn trên thế giới này. Cây Văn Minh mọc rễ từ những giá trị tinh thần và đa số chúng ta không hiểu, không có những rễ cây ấy, lá sẽ rụng và sẽ để lại một thân cây chết. Nếu tất cả núi là sách, và tất cả hồ là mực và nếu tất cả cây cối là bút viết, vẫn không đủ để miêu tả sự thống khổ trong đời sống của chúng ta các bạn ạ!

Cho nên tại sao những đạo sư giác ngộ như Thầy Thích Thông Lạc, như đức Phật, sau khi thấy đời đúng theo viễn cảnh của nó, không một động cơ vị kỷ hay ích kỉ nào, đã giải thích rằng: không có mục đích thực sự của đời sống nếu chúng ta cứ để cho đời sống chạy vòng theo chu trình sinh tử, trong khi đau khổ về thể chất và tinh thần. Nhưng chúng ta có thể sử dụng hữu hiệu đời sống này cho mục đích tốt đẹp hơn bằng cách phục vụ người khác, trau dồi luân lý, rèn luyện tâm trí và hợp với phần còn lại của thế giới.

Theo đức Phật con người là quả cao nhất của cây tiến hóa. Tuy nhiên triết lý cổ xưa trình bày mục đích đời sống như vậy: dẫn từ tăm tối đến ánh sáng, từ không chân lý đến chân lý, từ tử đến bất tử. Những lời nói dân dã nhưng có ý nghĩa này, cho chúng ta vấn đề đáng suy ngẫm. Tư tưởng bao hàm các ý nghĩa về từ bỏ trần tục, thiện chí, từ bi, không làm hại, những tư tưởng này phải được trau dồi và mở rộng với tất cả các chúng sanh không phân biệt giống loài, đẳng cấp xã hội, bè phái vì nó bao gồm tất cả những yếu tố cần thiết.

Tuy không có giới hạn, những tư tưởng cao quý như vậy không thể có được đối với một người vị kỷ chỉ biết cho mình. Một người có thể là thông minh, uyên bác và học rộng nhưng thiếu tư tưởng chân chính theo như giáo lý của Đức Thế Tôn, người đó là người vô minh không phải là một người hiểu biết chân chính và có Tuệ giác.

(02:41:01) Nếu chúng ta nhìn sự vật với nhận thức vô cảm, chúng ta sẽ hiểu rằng ham muốn vị kỷ, sân hận và bạo lực không thể đi cùng với trí tuệ thực sự. Chánh Kiến và Tuệ bao giờ cũng thấm nhuần với tư tưởng chân chính, không bao giờ làm mất chúng. Chánh Kiến là sự hiểu biết sự thật đúng sự vật, chúng đúng là như vậy. Tứ Diệu Đế giải thích sự vật, chúng đúng như thế nào. Cho nên Chánh Kiến chủ yếu là hiểu rõ Tứ Diệu Đế. Sự hiểu biết này là trí tuệ cao cả nhất- nhìn thấy sự thật tối hậu.

Theo Phật giáo có hai loại hiểu biết, cái mà ta thường gọi hiểu biết: là kiến thức về một sự tích lũy của trí nhớ, một sự thâu tóm trí thức của một vấn đề theo một số sự kiện. Điều này gọi là cái biết phù hợp. Nó không sâu lắm. Hiểu biết thật sâu xa gọi là thâm nhập: nhìn sự vật theo đúng bản chất, không phải tin vào nhãn hiệu.

Sự thâm nhập này chỉ có thể có được khi nào tâm đã gột rửa hết được những bất tịnh và đã hoàn toàn phát triển qua thiền định. Chánh Kiến hay thâm nhập trí tuệ là kết quả của sự tu tập thiền định, không ngừng kiên trì hay sự trau dồi cẩn thận về tâm.

(02:42:13) Một người có Chánh Kiến không thể có một quan điểm mờ mịt về về hình tượng. Với một người không thể còn nhiễm những bất tịnh vì đã đạt sự giải thoát hay chuyển về tâm.

Nhờ có Chánh Kiến chúng ta hiểu rõ về thân bất tịnh, về các pháp vô thường, vô ngã, hiểu rõ lý nghiệp báo luân hồi. Từ đó xây dựng đời mình tiến lên Thánh quả, bằng mọi hành động thanh tịnh. Có hiểu thấu vững chắc về khả năng tự sáng tạo đời mình trên hành trình giác ngộ, ta mới đốt cháy lên ngọn lửa tự tín, mãnh liệt, không còn mang ý tưởng tha cầu, đầy bệnh hoạn, lê lết xong đường lầy lội của vết xe luân hồi.

Bởi với hành trì Bát Chánh Đạo, khi vững chắc có Chánh Kiến dẫn đầu, đầy ân tình sáng soi thì đương nhiên có Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Ngữ phải soi rọi, tưới ẩm tâm ý mình trong ánh sáng thanh quý tuyệt vời của Chánh Pháp, mới giữ được nét thanh tâm- Chánh Kiến của tâm thức mình. Lưới tà kiến giăng mắc khắp cõi Diêm Phù Đề.

Người không siêng năng quán chiếu tu tập, không thấy sự cần thiết, không thấy nhu cầu bức bách, chào vĩnh biệt luân hồi thì khó kiến tạo cho mình một Chánh Tri Kiến. Chánh Tri Kiến là ánh sáng giác ngộ nguyên vẹn của dòng pháp nhũ có trên 2.500 năm.

(02:43:44) Ta đừng chê rằng Bát Chánh Đạo là pháp hành dành cho hạng tiểu căn mà lầm. Có nhiều người mới tu, mới học, nghe thuộc một số thiền ngữ của tổ sư rồi đâm ra đồng hóa thân phận còi cọc của mình với sự giác ngộ của tổ sư bằng cách trùng tuyên vanh vách lời ăn tiếng nói của các tổ sư.

Kẻ chưa đủ khả năng lãnh hội Chánh Kiến thì tưởng người kia là đại Thiền sư giác ngộ, không ngờ chỉ là một thứ vỏ rỗng. Kẻ có Chánh Kiến vững vàng thì lặng lẽ nhìn chỗ khác. Tóm lại, trong phần Chánh Kiến này nếu các bạn đi sâu lời dạy của Đức Thế Tôn, hàng ngày chỉ cần thấy pháp thiện biết ngay liền pháp thiện, thấy pháp ác biết ngay liền pháp ác. Đó là Chánh Kiến. Và khi gặp pháp ác thì cố gắng đẩy lui khỏi tâm tư của mình, để cho tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an vui và vô sự.

Trong đời sống hàng ngày của chúng ta nếu biết áp dụng Chánh Tri Kiến như trên đã dạy thì chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống an vui hạnh phúc biết bao, không những cho mình và cho những người thân thương của mình và xã hội quanh ta.

Kính ghi, Nguyên Thanh!

Tu viện Chơn Như ngày 08 tháng 01 năm 2006.

5- THƠ CÔ DIỆU HIỀN TẶNG CÔ HUỆ ÂN

(02:45:01) Trưởng lão: con phát giùm Thầy cái này, còn ai đọc giùm Thầy cái bài này cho cô Huệ Ân. Bây giờ cũng hết giờ rồi, đây có bài thơ để mừng cô Huệ Ân.

Tu sinh Nguyên Thanh: dạ để con đọc luôn cho, đây là bài thơ mừng cô Huệ Ân.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,

Kính gửi sư cô Huệ Ân, Con Diệu Hiền kính tặng sư cô một bài thơ, tặng sư cô Huệ Ân.

Trong lớp nữ người cao tuổi nhất

Là sư cô Thích Nữ Huệ Ân

87 tuổi còn minh mẫn

Đi học siêng năng rất chuyên cần

Tuổi đã cao sức già cũng yếu

Đi đứng nhờ cây gậy chống thân

Ai dìu đỡ sư cô không chịu

Để tự mình chậm bước lần lần

Thầy dạy tu tập Tứ Niệm Xứ

Lớp buổi chiều cho những người già

Muốn gặp Thầy hỏi điều khó xử

Con vô tình nên cũng tham gia

Thầy chỉ rõ cách tu cách tập

Cách giữ tâm thanh thản, an lạc

Sư cô xin Thầy vui thuận chấp

Kiểm tra Thân Hành Niệm rõ ràng

Cô chống cây gậy vững vàng ra lệnh

Chân trái bước, chân phải bước đi

Nhìn cô bước lòng con cứ mến

Thương quá thân lệ chảy hàng mi

Thầy khen được được, con quá giỏi

Tuổi cao sức yếu vậy mà gan

Thân Hành Niệm còn tu tập nổi

Đáng làm gương cho khắp đạo tràng

Nhưng tác ý con còn sót thiếu

Chân thứ ba con đã bỏ quên

Hành động thân nó cùng chung diệu

Cây gậy cầm tác ý nên thêm

Sư cô xin Thầy miễn cây gậy

Bởi chỉ quen tác ý hai chân

Thầy không chịu bỏ là thiếu đó

Bởi nó là hành động của thân

Thầy trò đồng cùng cười vui vẻ

Sư cô thưa con sẽ vâng lời

Này hỡi các bạn còn tuổi trẻ

Sư cô là một tấm gương soi

Năm cũ sắp hết gần năm mới

Kính chúc cô sức khỏe an lạc

Mừng xuân đến, đường tu tiến

Lòng quý thương con kính đôi hàng

Diệu Vân kính ghi!

Trưởng lão: hai cái máy này sẽ giao cho Liễu Huệ một cái, ai có mượn nghe thì Liễu Huệ giúp dùm, chịu khó chịu động một chút nha, còn ở bên nam thì sẽ giao cho Thanh Trí, ai có mượn thì đến bên nam, ngày mai Thầy sẽ giới thiệu cho Thanh Trí. Bây giờ cũng hết giờ rồi, buổi chiều mấy con cũng cứ đến dự đông đủ để nghe trả lời thêm những câu hỏi để rút tỉa theo những kinh nghiệm tu hành.

Sau cái bài Nguyên Thanh cũng nhắc nhở rất nhiều về vấn đề tu tập. Cố gắng mà ghi nhớ, mình học để tu, tu để được giải thoát, chứ không phải tu học để hơn thua nhau. Người nào cũng phải nỗ lực tu để cứu mình, cuộc đời quá khổ, mấy con. Hôm nay được cái duyên học được cái lớp này để được giải thoát thì mong mấy con, mọi người đều chứng quả giải thoát hết không có người nào rớt trở lại. Già cũng vậy, trẻ cũng vậy, tới cô Huệ Ân tới ngày chết, cô tự tại cô ra đi, là điều Thầy mong ước, mong là cô Huệ ân sẽ làm được. Đến đây hết giờ rồi, con sẽ cất cái máy này, con chịu khó ai mượn bên nam thì con cho họ nghe. Bên nữ có một cái, bên nam một cái.

HẾT BĂNG


Trích dẫn - Ghi chú - Copy