00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

LCK 027A (NỮ) - CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC - ĐỊNH VÔ LẬU XẢ TÂM - VẤN ĐẠO AN TRÚ - NHÂN QUẢ NGHỀ NGHIỆP

LCK 027A (NỮ) - CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC - ĐỊNH VÔ LẬU XẢ TÂM - VẤN ĐẠO AN TRÚ - NHÂN QUẢ NGHỀ NGHIỆP

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh (nữ)

Thời gian: 30/11/2005

Thời lượng: [54:05]

1- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC

(00:00) Trưởng lão: Hôm nay, Thầy sẽ nói về cái lớp học Chánh Niệm Tĩnh Giác. Cái lớp học mà Thầy dặn mấy con ghi lại cho mình từng phút mà mình nhiếp tâm, để rồi an trú tâm cho được. Lớp này nó rất quan trọng chứ không phải là nó không quan trọng, nó cũng không thua gì chúng ta tu Định Vô Lậu - đây là Chánh Niệm Tĩnh Giác Định. Cái lớp này giúp chúng ta tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Nếu chúng ta không học cái lớp này kỹ thì coi như sẽ không đạt được kết quả định tỉnh của cái tâm; mà tâm định tỉnh nó mới có nhu nhuyễn, nó dễ sử dụng.

Thí dụ như bây giờ mà học Định Vô Lậu; mà trước cái ác pháp đó nó làm cho tâm chúng ta dao động thì lúc bây giờ chúng ta không có đủ cái sức định tỉnh đó, thì chúng ta xả cái ác pháp đó không được thì nó làm cho chúng ta có đau khổ, có phiền não. Cho nên cái sức định tỉnh đó, phải tu như thế nào để mà định tỉnh, tu như thế nào để mà nhiếp tâm và an trú tâm cho được!

Như Thầy đã nói trước kia đó, là mình phải nhiếp từng phút, từng giây; để cho mình biết trong cái nhiếp tâm đó, như thế nào là kết quả của sự nhiếp tâm, như thế nào là an trú được tâm. Chúng ta phải rành được cái này, nếu chúng ta không rành, chúng ta sẽ không biết. Bởi vì ở đây không phải thiền định mà là tu để cái tâm nó định tỉnh, chứ không phải là ngồi tu để nhập vào thiền định gì cả.

Bởi vì cái lớp Chánh Niệm của chúng ta chỉ là lớp định tỉnh để mà xả tâm, để ly dục, ly ác pháp. Cho nên người mới vào tu mà gọi là tu thiền định, là người đó không có hiểu. Cho nên chúng ta đi vào con đường để mà định tỉnh - để xả tâm, ly dục, ly ác pháp; mà nếu thiếu sự định tỉnh thì chúng ta không thể xả tâm!

Cho nên sự nhiếp tâm và an trú tâm là mục đích để tâm định tỉnh; mà tâm định tỉnh thì chúng ta mới có nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Như đức Phật đã nói: “Tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng"; mà tâm chúng ta không định tỉnh thì không nhu nhuyễn, khó sử dụng.

Muốn được vậy thì căn cứ vào trong cái thời gian tu tập của các con ghi. Thầy ghi vào trong này như: Hương Từ thì 5 phút an trú, Liễu Châu thì 15 phút, Nguyên Phương thì 2 phút, Tuệ Hạnh thì không có ghi phút nào hết, Liễu Huệ thì 15 phút, Từ Đức thì 10 phút, Từ Hạnh thì 5 phút, Diệu Đức thì 5 phút, Liễu Nhâm thì 10 phút, Việt Thảo thì không có để phút nào hết, Diệu Vân thì ghi trong đó 30 phút - 15 phút - 10 phút - 5 phút, Vũ Thị Xiêm thì 25 phút, Tịnh Hạnh thì không có ghi phút nào hết, Hạnh Từ thì cũng chưa ghi, Mỹ Linh (Tú) thì 30 phút, Quảng Kính thì 30 giây, Quảng Đạo thì không có ghi, Quảng Trí cũng không có ghi, Diệu Hiền thì 1 phút, Liễu Ngọc thì 15 phút, Minh Chánh thì 5 phút, Nữ Hương thì 20 phút.

2- NHIẾP TÂM ĐƯỢC MỚI AN TRÚ ĐƯỢC

(03:42) Bây giờ Thầy nói như thế này, để Thầy phân tích cho mấy con thấy cái sự tu tập của mấy con, để thấy từ cái 1 phút như thế này; tại sao mình phải ghi như vậy - để sắp cái khả năng, cái trình độ của mình khi nhiếp tâm.

Thí dụ như mình nhiếp tâm trong 5 phút hay là 10 phút, mà trong khi đó mình vẫn biết cái thân hành của mình, bởi vì mình nương vào cái đối tượng của mình là thân hành nội hoặc thân hành ngoại.

Thân hành nội là hơi thở; thân hành ngoại là cái hành động của thân của mình như bước đi, đưa tay hoặc là duỗi chân…​ tất cả những hành động của mình đó là thân hành. Lấy thân hành làm cái đối tượng để nhiếp tâm - cái mục đích của đạo Phật. Cho nên nó có cái pháp Thân Hành Niệm đó, lấy thân hành làm cái niệm để nhiếp tâm.

Chứ mình không đặt ra cái niệm mới, mà lấy cái thân hành của chúng ta mà làm cái niệm. Do đó, khi nhiếp tâm vào cái niệm, làm cho tâm chúng ta dính vào cái niệm đó, gọi là nhiếp tâm.

Cho nên khi mà cái tâm chúng ta biết cái niệm - như khi mình đi, mình biết cái niệm đi của mình, mình vẫn biết cái cảm nhận bước đi của mình hoặc là mình cảm nhận cái hơi thở ra - hơi thở vô, dù là có một cái niệm, dù là có một tiếng động bên ngoài tác động vô, nhưng mình vẫn không mất cái niệm - đó gọi là nhiếp tâm. Thí dụ như bây giờ có cái niệm xẹt vô, chúng ta vẫn biết có cái niệm, nhưng mà chúng ta vẫn biết hơi thở, vẫn biết bước đi chúng ta, thì đó là chúng ta mới nhiếp tâm.

Còn khi an trú thì nó không có niệm xẹt ra, xẹt vô bên ngoài tác động, làm như chúng ta có nghe mà chúng ta không có lưu ý ở bên ngoài, tiếng động đó - thì chúng ta an trú. Còn nếu mà chúng ta vừa nghe, vừa biết mà chúng ta không mất cái niệm thân hành của chúng ta thì đó mới là nhiếp tâm mà thôi.

Phân biệt như vậy để làm gì? Đức Phật nói: "Nhiếp tâm và an trú tâm" - tức là 2 cái trình độ, chứ không phải nhiếp tâm được là an trú được liền đâu; mà biết được 2 cái kết quả của nó cụ thể, rõ ràng, để rồi chúng ta tu.

(05:43) Khi nào chúng ta biết là an trú tâm, mà khi nào chúng ta biết là nhiếp tâm? Thì trong khi nhiếp tâm Thầy đã giải thích cho mấy con hiểu rồi đó. Như vậy, chúng ta căn cứ vào chỗ đó để mà chúng ta tu tập để cho nó có kết quả, mà nó không bị dậm chân tại chỗ. Thí dụ như chúng ta nhiếp tâm trong 1 phút thôi, chúng ta an trú trong 1 phút, thì chúng ta tăng lên phút thứ 2 đó để mà chúng ta tu tiến tới.

Thí dụ như bây giờ chúng ta an trú được 1 phút, thì bây giờ chúng ta tu 2 phút; thì phút thứ 2 đó, nó còn có niệm xẹt vô, cho nên chúng ta đang tu để mà an trú cho được phút thứ 2. Mà muốn an trú cho được phút thứ 2 thì chúng ta làm sao cho hết những cái niệm mà ở trong đầu chúng ta xẹt ra!

Bây giờ cái phút thứ nhất là chúng ta an trú được rồi, mà phút thứ 2 thì chúng ta mới nhiếp tâm được thôi - nghĩa là chúng ta tỉnh thức được trên cái thân hành của chúng ta, mà còn có niệm xẹt vô.

Bây giờ chúng ta làm sao hàng phục, không cho cái niệm đó xẹt vô mà không bị ức chế. Còn nếu chúng ta ráng cố gắng tập trung thì nó bị căng đầu, hoặc là chúng ta cố gắng tập trung thì nó lọt vào tưởng - nó sanh ra những cái pháp tưởng.

Do như vậy, chúng ta không muốn cho nó sanh ra tưởng, mà không bị căng đầu chúng ta, căng thần kinh chúng ta - do như vậy, chúng ta phải tu cách nào để chúng ta nhiếp phục được cái niệm? Đây là vấn đề quan trọng để chúng ta tiến dần tới, khi đó chúng ta tu 30 phút mà chúng ta vẫn làm chủ được; chứ không phải là lúc thì tu không có niệm, lúc thì tu có niệm.

Cho nên vì vậy mà chúng ta căn cứ vào cái sức của chúng ta hiện giờ có, thí dụ như tu 30 giây, Thầy không nói là người tu 30 giây mà dở, mà từ cái căn bản của 30 giây đó nó được an trú thì Thầy tăng lên cho họ tu 1 phút. Thì trong khi tu 1 phút, thì họ tu 30 giây sau đó là họ tu để an trú cho được trong 30 giây sau, để cho họ an trú luôn cả 1 phút. Như vậy thì 30 giây đó họ phải đạt được sự an trú; mà đạt sự an trú không có nghĩa là ức chế tâm, mà là đạt được sự an trú đó bằng cách thức chúng ta xả tâm!

3- ĐỊNH VÔ LẬU XẢ TÂM

(07:45) Vậy thì hôm nay chúng ta học những cái bài Định Vô Lậu để làm gì?

Bởi vì những cái tướng niệm mà nó khởi ra, nó đều nằm ở trong cái lậu hoặc; mà cái lậu hoặc đó thì nó nằm ở trong cái nhân quả. Cho nên cái Định Vô Lậu mà chúng ta tu học hiện giờ đó - chúng ta tu học đường đi của nhân quả con người; để chúng ta áp dụng vào đời sống của chúng ta khi có một cái niệm khởi ra để chúng ta áp dụng vào đời sống của chúng ta để chúng ta hóa giải, làm cho tâm chúng ta không bị ức chế cái niệm đó mà được xả cái niệm đó - gọi là xả.

Vậy thì chúng ta áp dụng như thế nào?

Hiện bây giờ như chúng ta đang tu hơi thở để chúng ta an trú ở trong cái hơi thở đó được 1 phút đi; mà bây giờ chúng ta mới có được 30 giây an trú - còn 30 giây, không an trú.

Muốn được 1 phút an trú thì chúng ta 30 giây sau đó chúng ta tu. Thí dụ như giờ này Thầy tu 1 phút, hít vô - thở ra, Thầy tu 1 phút nhưng Thấy biết rằng trong 30 giây đầu thì Thầy an trú không có niệm gì hết nhưng 30 giây sau sẽ có niệm; thì khi 30 giây sau thì tiếp tục tu 1 phút đó, thì 30 giây sau sẽ có niệm xen vào. Và khi cái niệm xen vào đó, thì Thầy đặt cái niệm đó thành một cái đề tài của quán vô lậu - của Định Vô Lậu. Thì cái đề tài của Định Vô Lậu hiện giờ chúng ta đang học cái nhân quả thân hành, khẩu hành, ý hành. Chúng ta học cái nhân quả đó - khi cái niệm đó mà khởi ra thì chúng ta hiểu được cái lý của nhân quả, thì chúng ta xét qua, mổ xẻ cái niệm khởi ra trong đầu chúng ta qua cái nhân quả.

Qua cái nhân quả thì chúng ta thấy có cái sự mà duyên hợp của nhân quả; thì nhân quả này nó có thiện và ác; và đồng thời chúng ta chuyển biến cái nhân quả đó, chúng ta thấy nó thiện - ác như thế nào thì chuyển biến nó thành toàn thiện; nó không còn cái nhân ác, nó không còn thọ quả khổ nữa, nó chuyển.

Do vậy, khi chúng ta mổ xẻ, mà chúng ta hiểu nó là nhân quả rõ ràng rồi thì kèm theo đó là chúng ta chuyển hóa nhân quả đó bằng cái thiện. Và chúng ta nghĩ nhớ lại, cái niệm này nó đã xảy ra trong lúc nào mà cứ tới lui, tới lui hoài?

(10:05) Thí dụ như bây giờ ái kiết sử, nó khởi cái niệm nhớ gia đình của mình thì mình đưa ra mình quán nhân quả: "Đây là cái chùm nhân quả, cha mẹ cũng là do nhân quả, mình có nhân duyên mình tương ưng cho nên mình mới làm con của những người này và những người này quá là cực khổ nuôi mình lớn khôn. Và hôm nay, mình được biết chánh pháp thì cái ơn nghĩa đó không có nghĩa là mình quên ơn cha mẹ, mình cắt đứt, mình không thương cha mẹ. Mình thương, nhưng mình thương sao cho đúng nghĩa; chứ không phải bây giờ thương cha mẹ là về phải làm có tiền, có bạc, nuôi dưỡng cung cấp, cuối cùng ông bà sẽ chết trong cái đau khổ. Cho nên vì vậy mình nghĩ rằng cái ái kiết sử, mình thương nhớ cha mẹ mình, mình muốn trở về, nhưng mình nói trở về để làm gì? Mình phải nỗ lực mình tu, tu cho đạt được để độ cha mẹ mình tu hành, hoặc là cha mẹ mình lỡ có mất đi thì mình còn truy tìm được cha mẹ mình để độ, những cái người ơn mà sanh mình ra trong cái kiếp này".

Cho nên mình càng gặp ái kiết sử như vậy thì mình càng nỗ lực tu hơn, càng giữ gìn giới nghiêm chỉnh hơn. Vì vậy mình nhắc nó thì ái kiết sử được hóa giải, cái niệm đó nó bị hóa giải, nó không còn tới lui nữa, nó làm chúng ta bình an để chúng ta thực hiện tu tập. Mà chúng ta thực hiện tu tập trong tinh thần thương yêu cha mẹ, nỗ lực tu để mà cứu độ cha mẹ!

Như vậy rõ ràng, đứng trên nhân quả chúng ta thấy rất cụ thể, do đó chúng ta chuyển hóa nhân quả. Từ cái nhân quả ái kiết sử này nó sẽ bị bẻ gãy, nó không còn làm chúng ta ngồi đây mà thương nhớ nữa.

(11:28) Như vậy rõ ràng là chúng ta tu đâu có ức chế. Nghĩa là bây giờ chúng ta tu trong 1 phút mà 30 phút sau mà nó có niệm, niệm đó thuộc về ái kiết sử thì chúng ta đưa cái đề tài nó trở thành nhân quả. Rồi chúng ta quán xét mổ xẻ nó ra; rồi từ đó chúng ta chuyển biến mình trở thành nỗ lực, năng nổ tu hành hơn nữa để cần giúp cái nhân quả của mình, để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của mình. Đó là cái hay của chúng ta tu tập.

Cho nên vì vậy mà từ chỗ đó mà chúng ta xả được thì chúng ta tiến tới chúng ta tu phút thứ 2; mà phút thứ 2 chúng ta đạt được cũng do chúng ta xả thì tiến tới phút thứ 3. Cách thức chúng ta tu tập đâu có ức chế, mà chúng ta xả chứ!

Đó thì các con lắng nghe trong vấn đề, từ nào tới giờ mấy con tu tập phần nhiều là mấy con cố gắng tu tập làm sao cho hết cái niệm, rồi có nhiều khi cái niệm nó đến mà sức hiểu biết về cái tri kiến, hiểu biết về nhân quả, về ái kiết sử, hoặc về thân ngũ uẩn, hoặc về tất cả mọi cái điều kiện xảy ra thì các con chưa thông suốt.

Qua cái làm cái bài tập về Định Vô Lậu mà nhân quả, thì thật sự ra Thầy thấy mấy con chỉ hiểu một cách cạn cợt và hiểu chung chung, nó không có sâu, cho nên vì vậy mà các con chưa xả được tâm của mình là như vậy! Cho nên tu từ nào đến giờ mà hễ có đụng chuyện thì các con phiền não, có buồn, có tức, có bất toại nguyện trong lòng của mình - do cái sự tu không đúng cách.

Tu thì cái danh từ - nói Định Vô Lậu thì chúng ta hiểu biết đó như vậy. Nhưng mà khi đi sâu vào thì chúng ta không sâu, quán cạn cợt, do đó chúng ta quán lấy có.

Còn tu về Chánh Niệm Tĩnh Giác để được định tỉnh thì chúng ta lại tu bằng cách ức chế, cho nên lọt vào những cái tưởng. Vì vậy mà cuối cùng chúng ta có khi thì được tốt, có khi không được tốt; nhưng mà rõ ràng đó là do phần ức chế - cho nên nó có lúc được, lúc không.

Còn cái này chúng ta tu là đạt được, là làm chủ cái tâm của chúng ta. Chúng ta muốn nhiếp tâm trong hơi thở là nó bắt đầu nó an trú trong hơi thở, nó không còn một niệm nào nữa, đó là cái sức của chúng ta tu tập. Còn nếu mà chúng ta không có đủ sức vậy, thì chúng ta làm sao có đủ sức làm chủ! Cho nên ở đây đó, chúng ta đi trở lại, đi hết trở lại.

4- NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ PHẢI VỮNG CĂN BẢN

(13:35) Bây giờ các con cứ nghĩ rằng, các con sẽ ghi số thời gian của các con từ 30 phút, 15 phút, 20 phút, 25 phút, 10 phút…​ các con ghi như vậy. Đến khi Thầy kiểm tra trở lại mà thí dụ con ghi 5 phút, mà Thầy kiểm tra trở lại coi thử coi trong 5 phút các con nhiếp tâm - an trú tâm có đúng không; bởi vì khi mà nhiếp tâm - an trú tâm nó không có niệm; trong 5 phút mà mấy con có niệm, tức là mấy con bị cái lỗi là nói không thật.

Bởi vì từ khi mà Thầy dặn các con ghi cho Thầy biết, để từ cái căn bản của các con mà Thầy nâng lên để cho các con có cái sức tự chủ nhiếp tâm và an trú tâm mình, để lợi ích, để làm cho các con có sức định tỉnh. Mà giờ các con ghi sai thì các con sẽ khó; cái niệm ra, cái niệm vô hoài thì các con mất căn bản rồi; nếu ráng nữa thì mấy con bị ức chế.

Cho nên, Thầy mong rằng mấy con ghi cho nó đúng cái thời gian! Dù là mấy con ghi 30 giây, Thầy thấy 30 giây mà căn bản mấy con thật sự. Buổi sáng, mấy con tu nhiều thời trong cái buổi sáng - 30 giây, mà lúc nào con tu 30 giây con vẫn an trú được trong đó. Đó là cái tốt của mấy con, cái căn bản nhất của mấy con. Rồi từng đó Thầy sẽ cho tăng lên 1 phút. Rồi 1 phút mấy con đạt được, an trú được, Thầy cho tăng lên 1 phút 30 hoặc là 2 phút; 2 phút được - Thầy cho tăng lên 3 phút, 4 phút, 5 phút, lần lượt mấy con có căn bản.

Hễ không tu thôi, mà hễ tu nhiếp tâm vô hơi thở hoặc là trên bước đi của các con thì các con chủ động mà dẫn cái tâm của mấy con vào pháp. Không có phải buổi sáng tốt, buổi chiều xấu; hay là buổi tối tốt, buổi khuya xấu - không phải vậy, mà lúc nào nó cũng tốt hết. Nghĩa là thời tiết có thay đổi thì cách thức nhiếp tâm nó chỉ một mực; nhưng thời tiết thay đổi thì tâm của chúng ta nó cũng theo đó mà thay đổi; nhưng chúng ta vẫn làm chủ, nhiếp là được, không nhiếp thì thôi nhưng nhiếp là được. Đó là cách thức chúng ta tu, để mà chúng ta xả cái tâm.

Khi tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp hết thì lúc nào…​ bây giờ trời mưa chúng ta nhiếp cũng được, trời nắng nhiếp cũng được. Thời tiết thay đổi như thế nào, lạnh nóng như thế nào chúng ta vẫn nhiếp được hết hoàn toàn - bây giờ tâm chúng ta ly dục ly ác pháp. Còn tâm chúng ta chưa ly dục, ly ác pháp thì thời này chúng ta tu tốt, thời kia chúng ta tu không tốt. Như vậy chúng ta chưa phải tu biết cách làm chủ.

Cho nên khi mà phân lớp này nó cần thiết là đúng với đặc tướng, đúng với cái khả năng của mấy con nhiếp tâm. Khi đúng rồi thì Thầy sẽ sắp xếp cho mấy con hẳn hòi, rồi Thầy kiểm tra lại, rồi Thầy dạy cách thức. Thí dụ như bây giờ các con đi kinh hành đó, các con đi, lúc bấy giờ có cái niệm thì bắt đầu mấy con không có đi nữa, không có đi theo kiểu mà tư duy. Bây giờ tu tập kỹ, chúng ta ngồi xuống, khoanh chân đàng hoàng, đặt niệm trước mặt; lấy cái niệm đó đặt trước mặt để rồi chúng ta tư duy, hóa giải nó. Khi hóa giải xong rồi, chúng ta đứng dậy, chúng ta tác ý: "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành".

Đó là cách thức hiện giờ có sự hướng dẫn của Thầy để mấy con đạt được tâm định tỉnh. Khi đạt được tâm định tỉnh thì các con sử dụng Định Vô Lậu - các con hóa giải từng tâm niệm, xả từng tâm niệm của các con thì lúc bây giờ tâm các con sẽ nhu nhuyễn và dễ sử dụng.

Cách thức tu tập như vậy để đưa đi đến cái chỗ mà những danh từ đức Phật kết hợp trở lại: "Tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng" - thì nhập Bốn Thiền không có khó khăn, không có mệt nhọc; thực hiện Tam Minh cũng không có khó khăn, không có mệt nhọc.

5- PHÁ VÔ MINH LẬU

(17:04) Cho nên, đối với thiền định chúng ta không quan trọng lắm; nhưng mà đối với giới luật là rất quan trọng. Vì vậy, hôm nay mấy con được học tu, mấy con nhớ “giữ giới rất là nghiêm trọng!” Bởi vì đây là cái lớp đào tạo. Thầy nghĩ rằng với cái vấn đề tu học để giải thoát, để tâm vô lậu không phải khó. Thời gian đức Phật xác định là 7 ngày, 7 tháng, 7 năm; nhưng chúng ta thấy rằng 7 ngày thì đối với chúng ta chưa có người nào được đâu; nhưng mà 7 tháng thì chắc chắn là chúng ta cũng chưa chắc đã là đạt được; nhưng trong vòng 7 năm, nhưng không phải suốt 7 năm mà 1 năm hoặc là 2 năm - chúng ta thành công. Theo Thầy thiết nghĩ, lớp chúng ta tu học thì khoảng 2 năm là chúng ta tốt nghiệp hết rồi.

Như vậy, tại sao Thầy dám chắc chắn như vậy? Bởi vì khi mấy con học Định Vô Lậu rồi thì các con biết được ác pháp và thiện pháp; mà ác pháp thì đem đến sự đau khổ cho chúng ta, vì vậy mà các con biết rõ - các con còn sống trong ác pháp sao?

Chắc chắn là các con sẽ không sống trong ác pháp. Cho nên đức Phật nói: “bờ bên nay, bờ bên kia” - bờ bên kia là thiện pháp, là Niết Bàn; bờ bên nay là ác pháp. Mà chúng ta đã hiểu cái thiện pháp và ác pháp rồi, tức là chúng ta đã hiểu bờ bên kia và bờ bên nay rồi; lý đâu mà chúng ta đã hiểu cái bờ bên nay là bờ khổ đau, mà bờ bên kia là bờ giải thoát mà tại sao chúng ta không chịu ở bờ giải thoát, mà lại qua bờ không giải thoát này mà ở?

Cho nên đức Phật nói có hai con đường: con đường thiện và con đường ác. Vậy thì ai mà muốn đi con đường ác bao giờ? Con đường đó đem lại sự đau khổ cho chúng ta, vậy chúng ta hãy đi con đường thiện!

Mà con đường thiện hiện giờ chúng ta đã triển khai, cái tri kiến của chúng ta đã hiểu biết - hiểu biết con đường nào thiện và con đường nào ác. Vậy thì chúng ta hiểu biết rồi- tức là chúng ta "minh" rồi, chứ không còn vô minh; còn trước kia chúng ta chưa hiểu cho nên chúng ta còn vô minh.

Cho nên vô minh - nó mù mờ, nó làm chúng ta không biết cái thiện và cái ác. Cho nên chúng ta cứ nhầm lẫn, vì vậy cứ tạo khổ cho mình, tạo khổ cho người - đó là cái chỗ mà còn vô minh.

Cho nên Vô Minh Lậu có nghĩa là rất rộng: một cái điều kiện mà chúng ta làm có khổ mình, khổ người - đó là chúng ta bị Vô Minh Lậu.

Cho nên ở đây, phá cái Vô Minh Lậu đó thì chúng ta bằng cách là chúng ta phải tư duy, quán xét ở trên cái Định Vô Lậu; làm cho tri kiến chúng ta hiểu. Nhưng vì chúng ta không có sức định tỉnh, cho nên chúng ta bị dao động, vì vậy mà chúng ta không thể đẩy lui được cái ác pháp.

Do đó chúng ta phải tập định tỉnh, để từ trên cái nền tảng định tỉnh đó thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó hóa giải tất cả những ác pháp, nó không cho tác động vào thân tâm của chúng ta, tức là chúng ta giải thoát; mà giải thoát tức là chúng ta chứng chứ có gì đâu, chứng đạt được chân lý.

Mục đích của đạo Phật dạy chúng ta để tu tập giải thoát, chứ không phải là tu tập để có thần thông phép tắc. Có bao giờ đức Phật nói chúng ta tu có Tam Minh, có này kia đâu! Tại vì trên con đường tu tập tâm thanh tịnh, nó phải có như vậy thôi. Chứ mục đích của đạo Phật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ - nó không có dao động. Cho nên bờ bên nay và bờ bên kia nó rõ ràng.

Cho nên vì vậy mà quả chứng A La Hán không phải khó! Khi chúng ta hiểu rồi là chúng ta "minh" rồi, thì "minh" rồi thì làm sao có những cái vô minh xen vô được! Đã "minh" thì làm sao còn vô minh? Hễ cái này có thì cái kia không.

Cho nên ở đây chúng ta rèn luyện Định Vô Lậu để chúng ta triển khai cái tri kiến "minh" của chúng ta; mà cái tri kiến "minh" này gọi là tri kiến giải thoát. Vì nó "minh" - nó mới giải thoát; còn nó vô minh - nó mới đau khổ, nó mới không giải thoát. Cho nên mục đích chúng ta học rất rõ ràng: học và tu rất rõ ràng, cụ thể; nó không sai chút nào hết. Nếu chúng ta không nỗ lực học tu kỹ lưỡng thì chúng ta không làm gì được hết!

6- NHỮNG BÀI HỌC ĐẠO ĐỨC SỐNG ĐỘNG

(20:42) Vì vậy mà hôm nay triển khai - Thầy thấy có nhiều bài mấy con viết nó trở thành một cái bài học đạo đức nhân bản - nhân quả được.

Như cái bài của cô Diệu Vân - cái bài của con thì con nên làm thành sách Đạo Đức Nhân Bản - Nhân Quả giúp cho người khác đọc để họ sống thiện. Khi mình viết thì mình thường nhắc lại những cái nhân quả của mình trong khi mình làm thiện, làm ác; mình nhắc lại - nó trở thành cái bài học đạo đức sống động.

Đầu tiên thì mình đưa ra những chuyện ở ngoài xã hội nhưng cuối cùng để kết luận lại thì chúng ta đem lại cái bài học - tức là chúng ta được học ngay cái đạo đức trên thân của chúng ta, cái sự kiện đã xảy ra cho cái đời sống của chúng ta.

Rất nhiều đạo đức - chúng ta làm thiện, làm ác; chúng ta tạo những đau khổ cho mình, cho người. Chúng ta nói ra, nói ra hết - tức là chúng ta vô lậu. Coi như chúng ta biết rất rõ những điều sai, những điều không thiện của chúng ta; rồi chúng ta biết những điều mà chúng ta đã làm thiện.

Cho nên vì vậy mà chúng ta viết nó trở thành một tập sách Đạo Đức để cho mình, và đồng thời những người nào mà có duyên với mình, mình trao cho họ đọc tập sách Đạo Đức này, thì giúp cho họ được sống đạo đức, họ cũng biết được.

(22:03) Bởi vì những cái hành động sống như mình thì có những người nó tương ưng, nó cũng giống nhau. Cho nên khi mà họ đọc, họ thấy đây là một cuốn sách Đạo Đức rất là tuyệt vời! Nó thực tế, nó cụ thể cho cái cuộc sống của mọi người chứ nó không có nói cái chuyện cao siêu, huyền bí, xa lạ.

Cho nên, tất cả những cái điều mà chúng con viết nơi bản thân của mấy con thì nó thực tế; và nó cũng là chuyển biến cái nhân quả cho mấy con từ hiện tại cho đến tương lai; mấy con sẽ không làm cái điều ác nữa, không làm cái sự đau khổ nữa!

Bởi vì khi mà con viết ra, là mấy con đã nhắc nhở mấy con; và mấy con thông sâu trong nhân quả, nhân quả của chính bản thân của mấy con. Ban đầu mình mới viết, viết cái bài nhân quả thân hành, nói về cái thân hành của mọi người, sau đó mình nói về thân hành của mình, để kết luận được cái nhân quả của chính bản thân mình.

Mình móc ra, tức là mình cởi mở, mình giải trừ ra được những cái ác, cái thiện của mình; để cho mình chiếu soi lại, mình thấy những điều làm tốt, những điều làm xấu của mình để gây những buồn đau cho mình, cho người. Thì đây là một tập sách Đạo Đức.

Và các con có nhiều người viết trở thành những tập sách Đạo Đức rất hay! Cho nên mấy con cố gắng, cố gắng để xoay trở vào trong, để nói lên những điều đạo đức thật sự mà con người chúng ta được duyên học Phật pháp mà học được những bài đạo đức nhân bản - nhân quả này.

Thì do mấy con là tác giả đã viết nên, và mấy con chính là nhân vật ở trong cái tác phẩm này mà viết ra thì nó có giá trị rất lớn! Thầy có cái tác phẩm của Thầy, các con có cái tác phẩm của các con, vì đời sống của các con nói lên nhân quả chứ không có gì hết.

Các con bị chi phối trong nhân quả, mà từ đó chúng ta triển khai ra thì chúng ta trở thành một người minh, chứ không phải vô minh nữa. Do vậy mà khi mình có minh, thì mình phá cái Vô Minh Lậu, nó không còn lậu hoặc trong chúng ta nữa, do đó chúng ta được giải thoát.

7- CHỌN PHÁP TU TẬP ĐỊNH TỈNH THEO ĐẶC TƯỚNG

(24:00) Vì vậy mà tâm tập định tỉnh để nó trợ giúp cho cái nền tảng "minh" này, để hoàn toàn nó có cái chỗ tựa mà nó chuyển hóa hết tất cả ác pháp. Còn nếu mà chúng ta không định tỉnh thì chúng ta sẽ không có điểm tựa; và không có điểm tựa thì trí tuệ chúng ta nó không có dựa chỗ nào, thì nó không có làm sao đẩy lui tất cả những ác pháp tác động xung quanh ta.

Cũng như bây giờ, thân chúng ta đang bị đau nhức ở chỗ nào đó, mà nếu chúng ta không an trú được ở trên thân hành của chúng ta, tức là không định tỉnh được - tâm sẽ dao động trên cơn đau, chúng ta chỉ còn rên la và uống thuốc mà thôi.

Còn trái lại, tâm chúng ta định tỉnh - không bao giờ mà dao động tâm. Thì lúc bây giờ, chúng ta nương tựa vào cái thân hành của chúng ta, an trú vào đó thì chúng ta tác ý, chúng ta đẩy lui được cái bệnh của chúng ta ra khỏi thân.

Thì sự an trú đó có nhiều phần trên tâm định tỉnh: cái phần thứ nhất là chúng ta tu tập, chúng ta nương vào cái thân hành của chúng ta - thân hành nội là hơi thở, thân hành ngoại là cái hành động thân của chúng ta bước đi hay đưa tay, duỗi chân; còn một cái định tỉnh nữa là trên cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự của chúng ta chứ không phải riêng có thân hành của chúng ta; mà chúng ta định tỉnh trên trạng thái của Tứ Niệm Xứ. Cho nên người nào mà hợp duyên với trạng thái của Tứ Niệm Xứ, tức là trạng thái với tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì nên nhiếp tâm vào cái đó, để căn cứ vào chỗ đó để biết được cái nhiếp tâm của mình trong khoảng thời gian bao lâu.

Như vậy, chúng ta có ba chỗ mà chúng ta nương vào để mà chúng ta định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Ba chỗ nương: chỗ thứ nhất là chúng ta nương vào hơi thở; chỗ thứ hai là chúng ta nương vào cái bước đi kinh hành của chúng ta; chỗ thứ ba là nương vào tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự - tức là nương vào Tứ Niệm Xứ.

Vậy thì chúng ta có ba chỗ, nhưng người nào hợp chỗ nào. Thí dụ như các con nhiếp vào hơi thở, bị rối loạn hơi thở, bị mệt, bị tức - do dó mấy con không cần nhiếp vào hơi thở mà mấy con nhiếp vào bước đi. Mấy con thấy đi mấy con an trú được, và đồng thời mấy con thấy hoàn toàn mấy con an trú được, an trú tâm được trên bước đi, thì mấy con dùng bước đi mà mấy con sử dụng.

Còn bây giờ nếu mà mấy con thấy bước đi nó không an trú được, nó cứ có niệm hoặc chướng ngại gì đó, nó mỏi chân hoặc là nó như thế nào đó, thì mấy con thấy nó không được thì mấy con nhiếp tâm - an trú vào tâm thanh thản, an lạc, vô sự.

(26:22) Nhưng mà khi mấy con nhiếp tâm vào tâm thanh thản, an lạc, vô sự đó thì một lúc thì mấy con bị ngủ gục bởi vì nó đâu đơn giản được, cái nào nó cũng có cái khó!

Thí dụ như con đi kinh hành thì mỏi chân, nó làm con thấy uể oải, mệt nhọc, lười biếng, rã rượi - đi hoài nó rã rượi. Do đó, cho nên vì vậy con thấy nhiếp trong bước đi không được, do vì vậy mà con nhiếp vô trong cái Tứ Niệm Xứ - tâm thanh thản, an lạc, vô sự.

Nhưng nhiếp trong Tứ Niệm Xứ thì nó có cái chướng của nó thì nó bị hôn trầm, thùy miên. Vì nó không có cái pháp; nó không có đối tượng để cho mình ôm chặt cho nên mình bị hôn trầm, thùy miên. Nhưng mình biết cách, bây giờ mình bị hôn trầm, thùy miên thì mình có cách thức ngồi tại chỗ mà phá chứ khỏi đi; bởi vì mình đi thì mình tu không hợp rồi, mà mình đi nữa thì không được, cho nên mình có pháp phá nó, phá nó bằng cách nào đây?

Do đó mình biết cách phá để cho hôn trầm, thùy miên của mình không trở lại, cho nó tỉnh táo nó ở trên chỗ thanh thản, an lạc, vô sự của nó.

Thì bắt đầu mình sử dụng cái đề tài của Định Niệm Hơi Thở - mình nhắc: “Với tâm định tỉnh, tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh, tôi biết tôi thở ra”. Mình chỉ nương vào hơi thở của mình ra - vô để cho nó định tỉnh, thì trong khi mình ngồi tại chỗ để mình giữ tâm thanh thản.

Hoặc là trong khi mình bị hôn trầm, thùy miên thì mình chuyển qua cái bước đi của mình, mình đi chừng nào hết buồn ngủ thì mình xả ra rồi trở về với tâm thanh thản của mình.

Đó là mình mượn nó để mình phá thôi, chứ mục đích của mình là mình ôm cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự của mình để cho mình nhiếp tâm và an trú tâm, chứ không phải nhiếp ở trên cái bước đi của mình.

Nhưng mà khi bị hôn trầm thì bắt buộc mình phải sử dụng nó, hoặc là mình đứng tại chỗ sử dụng pháp Thân Hành Niệm để cho mình phá cái hôn trầm của mình thôi. Khi mình tỉnh rồi thì thôi, mình không tu cái này nữa.

Không phải là tôi nhiếp tâm trong cái pháp này, mà tôi mượn cái pháp này để tôi đẩy lui. Còn mình ngồi tại chỗ thì mình mượn hơi thở, chứ không phải mình tu hơi thở cho nên mình không bị rối loạn hơi thở, vì mình mượn nó mà mình đẩy lui được. Cho nên các con có ba chỗ để tu tập.

(28:20) Vậy từ đây về sau thì mỗi người mà các con tu về bước đi, tức là Chánh Niệm Tĩnh Giác, đi kinh hành thì mấy con ghi cho Thầy biết là mấy con đi kinh hành nhiếp tâm - an trú đó. Còn mấy con tu về hơi thở, chứ mấy con tu mà cũng đi kinh hành, cũng hơi thở - Thầy không biết mấy con tu pháp nào để nhiếp tâm an trú. Cái nào mấy con cũng ghi hết thì coi như Thầy không biết cái pháp nào mà các con chọn được cái pháp chuyên môn cho mình để cho mình được làm chủ.

Bây giờ các con chọn lấy - đi kinh hành, hợp với đặc tướng của mình thì chọn đi kinh hành; mà thấy hơi thở mà mấy con nhiếp tâm được thì chọn lấy hơi thở. Để từ đó Thầy hướng dẫn cho mấy con theo hơi thở mà tăng lên.

Bây giờ mấy con thấy hai cái pháp này không hợp, mà mấy con lại thích tu Tứ Niệm Xứ, do đó Thầy lấy Tứ Niệm Xứ mà hướng dẫn mấy con để cho mấy con nhiếp tâm được trên cái thời gian nào, đúng cái thời gian nào đó thì mấy con dừng lại chứ không được tu nữa, để chúng ta thực hiện được cái sự giải thoát.

Khi mà các con tu đến cái thời gian, như Thầy cho các con tu 30 phút thôi, thì 30 phút Thầy biết các con ở trên 30 phút đó sẽ đẩy lui được những cái chướng ngại trên thân của con, thì bắt đầu mấy con trở về với vị trí là tu Tứ Niệm Xứ của mấy con.

Do như vậy các con sẽ dùng Định Vô Lậu mà quán xét mà xả ly hết tất cả các niệm. Định Vô Lậu là cái gốc để xả ly, vì vậy trong khi mình định tỉnh được ở trong 30 phút là mình đủ sử dụng Định Vô Lậu này.

Các con sẽ dùng cái tri kiến, tức là cái minh để xả hết tất cả cái niệm trong tâm con. Cho nên hoàn toàn các con ly dục, ly ác pháp bằng cái Định Vô Lậu chứ không phải bằng cái Định Chánh Niệm Tĩnh Giác đâu. Nhưng Chánh Niệm Tĩnh Giác để cho con cái điểm tựa để con dùng cái Định Vô Lậu mà con đẩy lui tất cả những ác pháp ra khỏi thân tâm của các con, để đem lại sự bình an, cái sự giải thoát cho mấy con.

Các con hiểu đường lối của đạo Phật để giúp chúng ta ly dục, ly ác pháp hoàn toàn, giúp tâm chúng ta thanh tịnh, cho nên nó hoàn toàn bất động. Và khi nó hoàn toàn bất động là chúng ta đã chứng quả A La Hán - tức là chứng đạt chân lý.

8- KHÔNG XẢ TÂM DỄ BỊ AN TRÚ TRONG TƯỞNG

(30:23) Vậy thì hôm nay, thì đến đây thì mấy con đã hiểu rồi. Vậy thì mấy con ghi kỹ lại cho Thầy biết người nào tu tập, trong khi mấy con ghi có lúc mấy con ghi hơi thở, rồi đi kinh hành; nó lung tung - mấy con ghi phút, giây cho Thầy biết như vậy.

Cho nên ở đây, mấy con tu được 30 giây thì mấy con ghi 30 giây, Thầy không cần mấy con tu nhiều đâu! Thầy không cần mấy con tu mà 30 phút, 1 giờ, 2 giờ mà nhiếp tâm - an trú tâm được cái giờ cao đó đâu. Thầy sợ cái giờ cao của mấy con lắm!

Tại vì mấy con tu 30 phút là coi chừng mấy con bị tưởng rồi, mấy con nhiếp tâm ở trong tưởng thôi! Chứ bây giờ rõ ràng tâm mấy con chưa có xả, chưa có ly; mà mấy con lại tu tập nhiếp tâm được, an trú được như vậy thì Thầy biết là an trú trong tưởng mất rồi, các con hiểu chưa?

Cho nên khi một người mà Thầy hướng dẫn thì biết được mấy con chưa ly dục, ly ác pháp mà tại sao an trú được 30 phút, định tỉnh được 30 phút? định tỉnh bằng cách nào đây? Chỉ còn có nước tưởng thôi, chứ không còn cách nào khác hết. Tức là mấy con sẽ được sự an trú - mà an trú đó trong tưởng.

Mà an trú trong tưởng thì nó có cái hỷ lạc của tưởng, chứ không phải cái hỷ lạc của do ly dục, ly ác pháp. Còn bắt đầu mình phải tu tập như thế nào để mình ly dục, ly ác pháp; để do ly dục sinh hỷ lạc mới là ở trong cái định tỉnh của ly dục, ly ác pháp mới được. Mà mình chưa có đủ cái Định Vô Lậu, chưa đủ tri kiến giải thoát làm sao mình xả được cái tâm của mình mà gọi là ly dục, ly ác pháp? Kiểm điểm lại những cái bài vở của mấy con viết như thế này thì làm sao mấy con đủ sức để mà ly dục, ly ác pháp? Không đủ cái tri kiến của mấy con làm sao ly dục, ly ác pháp?

Bởi vì những cái niệm tham, sân, si của mấy con nó phải hiện ra những cái niệm của nó chứ sao! Nó còn ham muốn, nó phải khởi ra cái niệm ham muốn; nó còn tức giận, nó phải khởi ra cái niệm phiền não; các con thấy nó rõ những hiện tượng khởi trong đầu của mấy con thì tức là cần diệt cái niệm đó.

Mà muốn đạt được thì tức là mấy con phải tu Định Vô Lậu này còn nhiều nữa chứ không phải ít đâu! Để trang bị cho chúng ta đủ cái tri kiến giải thoát để mọi tâm niệm của chúng ta - mọi sự tham, sân, si; mọi tướng tham, sân, si nó hiện ra thì chúng ta đủ sức khắc phục, đủ sức chuyển biến nó, hóa giải nó, nó không còn nữa, nhưng đủ sức để mà ly, để mà ngăn, mà diệt nó.

(32:40) Cho nên chúng ta phải có phương pháp ngăn diệt. Chứ bây giờ trong Tứ Chánh Cần nói Ngăn ác, Diệt ác - Sinh thiện, Tăng trưởng thiện. Nhưng chúng ta lấy cái gì mà chúng ta ngăn, chúng ta diệt đây?

Nếu chúng ta tự dùng pháp Như Lý Tác Ý, mỗi ác pháp chúng ta tác ý chúng ta ngăn thì chẳng qua cũng giống như Thiền Đông Độ - biết vọng liền buông, thì như vậy chúng ta bị ức chế mất đi. Cho nên chúng ta chưa có đủ cái tri kiến giải thoát, chưa có đủ cái sức của Định Vô Lậu mà chúng ta ngăn - diệt làm sao được!

Cho nên trong cái phương pháp mà tu về Tứ Chánh Cần (Ngăn ác, Diệt ác. Sinh thiện, Tăng trưởng thiện) có bốn loại Định, trong đó có cái Định Vô Lậu, mà Định Vô Lậu là cần thiết nhất để ngăn ác và diệt ác.

Còn những cái định kia như Chánh Niệm Tĩnh Giác, như Định Niệm Hơi Thở, như Định Thư Giãn (như Định Sáng Suốt đó) thì tất cả những định này nó giúp cho ta định tỉnh mà thôi, chứ không có gì hết.

Còn cái Định Sáng Suốt là tại vì chúng ta tu tập nó mệt nhọc, chúng ta phải xả nghỉ, thư giãn. Đó là cách thức thư giãn để xả nghỉ.

Còn cái Định Niệm Hơi Thở là nhiếp tâm để an trú, để giúp chúng ta định tỉnh, để khi có những cái ác pháp gì tác động vô thì chúng ta nhờ cái tác ý đó để mà cho nó lui ra, cho chúng ta được định tỉnh ở trong cái hơi thở mà thôi.

Cho nên cái pháp đi kinh hành Chánh Niệm Tĩnh Giác và Định Niệm Hơi Thở là chẳng qua cái pháp tu tập định tỉnh. Còn cái Định Vô Lậu này mới chính là cái định của đạo Phật để dạy chúng ta tâm vô lậu để chứng quả A La Hán.

A La Hán là vô lậu! Cho nên vì vậy, muốn vô lậu thì chúng ta phải tu Định Vô Lậu; cho nên triển khai tri kiến của chúng ta mới không còn Vô Minh Lậu nữa, nó mới hết.

Cho nên các con thấy những điều đức Phật dạy nó cấu kết, nó cụ thể, nó rõ ràng chứ không phải…​ Trên pháp hành, pháp học nó rõ ràng, nó phải từ đó mà triển ra.

(34:19) Cũng như bây giờ các con thấy, hồi nào tới giờ các con hiểu nhân quả, nhưng nếu mà nói một con người sinh ra nhiều người thì mấy con bán tín, bán nghi; mặc dù rằng lời nói của Phật đây, mấy con vẫn bán tín, bán nghi nữa! Nhưng bây giờ so sánh lại với nhân quả thảo mộc thì mấy con đâu còn sinh nghi nữa vì nó cụ thể rồi, nó rõ ràng rồi, bởi vì trước mắt các con đã nhận thấy rồi.

Cho nên khi triển khai cái tri kiến chúng ta bằng cái thấy chính của chúng ta - thấy như thật; còn thấy chưa như thật thì chúng ta bán tín, bán nghi; dù đức Phật nói chúng ta vẫn bán tín, bán nghi chứ chưa hẳn! Chúng ta tin cái lời của đức Phật nói là chúng ta tin Phật, nhưng mà chúng ta không hiểu thì chúng ta phải nghi; có cái điều kiện cần thiết như vậy, chứ không phải hoàn toàn là chúng ta tin hết đâu!

9- VẤN ĐẠO AN TRÚ

(35:00) Hôm nay thì Thầy sẽ trả lại cho mấy con những cái bài của mấy con. Trước khi trả, Thầy sẽ trả lời, có những câu hỏi của mấy con.

Trưởng lão: Diệu Đức hỏi Thầy: “Kính bạch Thầy! Có cách nào để an trú tâm được lâu không? ”

Có chứ, có cách chứ, có phương cách đàng hoàng, chứ đâu có lại không có phương cách mà không bị ức chế đó. Như Thầy nói các con là khi mà chúng ta tu tập, chúng ta dùng cái Định Vô Lậu, bởi vì muốn được an trú mà không có niệm khởi trong tâm chúng ta, mà bây giờ chúng ta tu hoài mà cứ có niệm hoài không hết.

Bây giờ mới hỏi Thầy câu hỏi: “Có cách nào để an trú tâm mình được lâu không? ”, nghĩa là an trú. Thầy nói thật sự, khi mà con nhiếp được 30 phút rồi, bây giờ mấy con muốn nhiếp bao lâu cũng được hết, nó cũng không có niệm, bởi vì mình biết cách rồi và đồng thời mình xả hết tâm rồi thì nó cũng không còn niệm đâu. Mình ly dục, ly ác pháp thì nó hết niệm rồi. Còn bây giờ nó đang còn những cái niệm tham, sân, si của nó cho nên nó vẫn còn niệm; vẫn còn niệm mà mình muốn nó không niệm thì phải xả nó thôi. Nó có cách xả nó chứ.

Định Vô Lậu - đây là phương pháp xả những cái niệm đó chứ có cái gì đâu khác. Cho nên vì vậy mà các con càng triển khai cái Định Vô Lậu thì các con xả cái niệm để tâm con an trú tâm lâu dài hơn. Đó là cách thức để dùng nó xả tâm.

an trú tâm có lợi ích gì? Con nghĩ tâm an ổn thì thôi, sao phải an trú? ”

Trưởng lão: Con biết an trú - khi mình chưa an trú được thì ác pháp nó bật, đánh gốc mình ra, nó làm cho tâm mình dao động liền tức khắc; còn mình an trú thì nó không có đánh gốc mình ra được, cái ác pháp tác động đó mấy con. Bởi vì an trú tức là như hồi nãy Thầy nói: "tâm định tỉnh", mà nếu có an trú được thì nó mới có lợi ích, nó mới nhu nhuyễn, dễ sử dụng; còn không định tỉnh thì nó không nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Cho nên đức Phật đã nói mà: "tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng".

Con thấy ba cái danh từ kép này kết hợp thành một cái đường đi của nó rõ ràng: "Tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng" nhưng mà mình an trú không được thì tâm không định tỉnh. Cho nên nó mới có những phương pháp để cho chúng ta biết cách để mà chúng ta an trú cho được tâm mình và đồng thời mình phải tu mình an trú cho được!

Thì ở đây, những câu hỏi này thiết thực để mà chúng ta hiểu cho rõ cách thức tu tập.

(37:12) “Và an trú tâm có lợi ích gì? ”

Trưởng lão: Đó là cái câu hỏi để biết cách thức an trú. - An trú tâm để có tâm định tỉnh.

“Con nghĩ tâm an ổn thì thôi, sao lại phải an trú? ”

Trưởng lão: Nếu mình không trú thì mình bị ác pháp đánh bật gốc ra; còn mình trú được thì nó đánh mình không bật gốc ra. Con hiểu không?

Cũng như bây giờ, thí dụ như cái cơn đau mà con không an trú được trong hơi thở con; con không an trú trong thân hành con; con không an trú trong cái bất động tâm của con - tức là tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì cái đau đó nó sẽ lôi con theo cái đau, nó đánh bật gốc con ra liền. Còn con an trú - con dính vô đó, nó không bật gốc ra, cho nên cái đau nó giảm xuống liền tức khắc, làm cho con được an ổn, cho nên gọi là an trú.

Bởi vì nghiệp lực nó có sức lực rất là mạnh. Cái cơn đau, chúng ta lấy tay ngắt chúng ta cái như vầy: “đau”, rồi nó hết; nhưng mà có cơn đau nó dai dẳng, mà nó đau càng ngày lực đau tăng lên đến cái mức độ của nó, cái lực của nó đến mức độ đó nó mới hết đau nhưng đến mức độ cuối cùng của sự đau Thầy thấy phần nhiều là con người bò càng hết!

Thí dụ như cái cơn đau bụng thôi mà mấy con thấy ghê gớm! Thầy thì không biết cái người đau bụng đẻ như thế nào nhưng mà mẹ Thầy thì nói lại: “đau bụng đẻ, đau dữ lắm!” Không biết đau như thế nào nhưng mà nghe mẹ Thầy nói đau ghê gớm lắm - thì chắc cũng đau lắm! Cho nên người đau đó họ gồng mình lên - họ chịu đựng.

Còn cái đau mà ung thư đó! Thầy thấy như thầy Sắc Tứ ở đây, thầy đến đây thầy ở mà. Khi đau thầy gồng tay, gồng chân lên, thầy chịu đựng cơn đau, thầy cắn chặt răng thầy chịu đựng. Nó đau, chắc có lẽ đau lắm! Thấy cỡ mà người ta gồng mình lên, trân mình lên chịu đựng cơn đau thì Thầy nghĩ cơn đau nó cũng có cái lực ghê gớm lắm! Nếu mà chúng ta an trú không được thì cơn đau đó nó sẽ lôi chúng ta, nó không còn có chỗ nào mà để trụ.

Cho nên vì vậy mà chúng ta tập an trú, để cho nó an trú được. Khi ác pháp tác động đến thân tâm, cái nghiệp nó tác động như vậy thì chúng ta an trú vô, hoàn toàn an trú thì cơn đau đó nó sẽ bị giảm xuống dần bởi vì cái nghiệp nó sẽ bị chuyển. Cho nên khi mà chúng ta an trú nó có lợi ích rất lớn; còn tâm an ổn - nó chỉ nhỏ mà thôi!

“Khi an trú, có dùng câu pháp hướng không? ”

Trưởng lão: Nói chung, an trú thì không còn dùng câu pháp hướng. Nghĩa là mình an trú rồi, trú trong đó thì không có dùng câu pháp hướng. Còn đang dùng câu pháp hướng tức là còn dẫn tâm, tức là mình chưa an trú - mình đang dẫn nó vô an trú.

Cho nên, thí dụ như bây giờ Thầy muốn an trú trong cái tâm thanh thản của Thầy, Thầy nhắc: “tâm thanh thản, an lạc, vô sự”, rồi Thầy trú ở trong thanh thản đó một chút cái Thầy sợ nó sẽ bung ra cho nên Thầy lại nhắc, tức là còn tác ý là mình còn tập an trú chứ chưa có an trú.

Cũng như Thầy đi kinh hành Thầy nói: “tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi Thầy đi đây tới cửa, tức là Thầy tập nó an trú từ đây tới cửa. Thầy biết cái bước đi của Thầy nhưng mà Thầy sợ nếu đi ngược từ đằng kia mà đi trở lại đây thì nó sẽ bị có một cái niệm hoặc có cái gì làm cho chướng đi, nó sẽ mất sự an trú của Thầy cho nên Thầy nhắc 1 lần nữa - tức là Thầy còn dẫn nó, dẫn nó để an trú.

Cho nên cái tác ý còn, pháp hướng còn thì nó còn đang tập; còn khi mà an trú rồi thì không còn hướng nữa - hết! An trú rồi thì coi như an ổn ở trong đó, không còn tác ý nữa - thì như vậy mới gọi là an trú thật sự.

(40:25)“Khi con ngồi theo dõi hơi thở thì chỉ được có 10 phút, có lúc được 15 phút, có khi có 5 phút? "

Trưởng lão: Như vậy rõ ràng là 10 phút, 15 phút là không lấy, mà lấy 5 phút; phải lấy cái chót của nó đó, tức là mình an trú được ở trong 5 phút. Nhưng mà có lúc được, rồi có khi không được; nhưng mà cái 5 phút này là cái chuẩn, lúc nào chúng ta cũng đạt được hết.

Mà nếu nói 5 phút, có khi còn có 3 phút thì sụt xuống 3 phút; mà có khi còn có 1 phút thì lấy 1 phút chứ không có được lấy 3 phút, lấy 2 phút. Vì đó là cái chuẩn của chúng ta, cái căn bản của chúng ta để đi lên trên cái sức định tỉnh của nó để mà an trú.

“Khi ngồi tập trung lâu, con thấy dễ rơi vào vô ký lắm? ”

Trưởng lão: Đúng rồi, tập trung lâu thì dễ rơi vào vô ký và nó dễ rơi vào định tưởng nữa chứ không phải là vô ký không đâu! Cho nên ở đây chúng ta tu tập là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng có pháp, đang tu tập mà. Còn khi tu tập xong thì an trú là không bao giờ có rơi vào vô ký được hết, không bao giờ hôn trầm đánh vô được, bởi vì mình an trú!

Cho nên mình không còn dùng pháp nữa mà mình trú vào trong cái hơi thở hoặc trú vào trong bước đi của mình, thì hoàn toàn nó an ổn trong đó, cho nên cái pháp tác ý nó không còn có nữa, cho nên nó là an trú. Mà an trú được thì không bao giờ có vô ký, mà an trú chưa được tức là sẽ có vô ký, hôn trầm đánh vô chỗ đó và tưởng cũng sẽ đánh vô chỗ đó!

“Kính xin Thầy chỉ dạy cho con được rõ, con chưa rõ vấn đề an trú tâm này lắm? ”

Trưởng lão: Cách thức mà Thầy dạy cho mấy con, cách thức an trú đó - bây giờ mình lấy căn bản của mình, đi từ cái căn bản chứ nhiều khi mấy con nghĩ là tu 30 phút là tu hết 30 phút rồi chuyển qua pháp khác tu. Còn cái căn bản mà để an trú đó, có lúc thì được 20 phút, có lúc thì được 15 phút, có lúc 10 phút, có lúc 5 phút, có lúc 3 phút - thì như vậy mấy con tu hoài là nó cũng vậy thôi, nó cũng không hơn gì hết, nó đâu có căn bản đâu!

Cho nên phải nắm cho được cái căn bản. Cái sức của chúng ta nhiếp cái tâm của mình và an trú tâm mình được ở cái mức nào, mình lấy cái chỗ đó mình làm cái chuẩn để mình đi lên.

Mình biết cái kết quả hàng ngày, hàng tuần mình có thể mình tiến lên được, mình thấy rõ ràng và khi mình tiến lên được thì mình không có dậm chân tại chỗ nữa. Và cuối cùng, mình tiến đến cái mức độ cuối cùng của nó thì mình lấy cái chỗ đó làm cái chuẩn thời gian của nó. Rồi từng đó mình mới sử dụng để cho mình xả tâm, mình ly dục, ly ác pháp cho sạch; cách thức của mình trú tâm để cho mình định tỉnh, mình nằm ở chỗ đó mà mình xả.

Cho nên mấy con thấy trước tiên, nếu mà quán ly tham, quán ly sân, quán ly si; quán từ bỏ tâm tham, quán từ bỏ tâm sân, quán từ bỏ tâm si qua Định Niệm Hơi Thở thì các con thấy phải an trú thân và an trú tâm. Cho nên “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra". Rồi bắt đầu mới dạy: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra”; và tất cả những đề mục sau thì quán ly tham, quán ly sân, quán ly si. Mấy con thấy rõ ràng, từ cái chỗ an tịnh được, an trú được rồi thì bắt đầu mình sử dụng cái Định Vô Lậu này là mình xả hết, mình ly dục, ly ác pháp hết, hoàn tất được con đường tu rất dễ dàng!

Khi mình đã triển khai được cái tri kiến giải thoát của Định Vô Lậu rồi thì mình thấy mình có cái phương pháp để xả ly và đồng thời trong khi mình triển khai thì mình đã xả ly, mình đang xả ly rất nhiều cái ác pháp, rất nhiều cái tham, cái sân của mình.

(43:36) “Nếu an trú không cho niệm thiện - niệm ác khởi lên thì có rơi vào Thiền Đông Độ không? ”

Trưởng lão: Nghĩa là mình “an trú mà mình xả tâm” chứ không phải là “an trú ức chế tâm”, con nhớ phân biệt đó! Mình an trú mình xả tâm là khi mình…​ bây giờ Thầy tu được 1 phút là an trú rồi, cái khả năng của Thầy nhiếp là an trú được 1 phút, bây giờ phút thứ 2 là Thầy xả đây. Thầy tiếp tục Thầy tu phút thứ 2 mà có 1 cái niệm nào xẹt vô, Thầy tu bình thường chứ Thầy đâu có nhiếp tâm, phải cố gắng mà giữ thì bị ức chế.

Cho nên Thầy cũng vẫn tu bình thường, Thầy cũng như là ở trong cái rất là nhẹ nhàng, không cố gắng mà tập trung do đó thì cái niệm nó sẽ khởi ra. Mà cái niệm nó khởi ra là nó biến thành cái đề tài vô lậu của Thầy rồi, Thầy qua cái vô lậu Thầy xả nó ra. Khi mà Thầy xả hết cái niệm đó rồi thì Thầy trở về với cái hơi thở mà Thầy nhiếp tâm, Thầy an trú trong hơi thở trở lại.

Thì khi mà cái sức mà Thầy nhiếp tâm ở trong 1 phút đó, thì nó đạt 1 phút đó thôi, chứ phút thứ 2 thì nó sẽ bị có niệm. Mà nếu mà giờ này nó không niệm, buổi sáng Thầy tu 2 phút buổi sáng nhiều khi nó không niệm - nó không niệm thì tốt thôi không cần nói gì hết; mà buổi chiều nó có niệm đó mấy con. Hoặc là bây giờ nó không niệm, mà lát nữa Thầy tu về hơi thở mà Thầy an trú đó, thì nó sẽ bị niệm đó.

Mà nó niệm thì được cái cơ hội để mà Thầy dùng Định Vô Lậu Thầy xả, dùng tri kiến giải thoát này Thầy xả cho nên Thầy có phương pháp mà Thầy xả, chừng nào nó xả hết rồi thì bắt đầu nó an trú luôn, mà nó an trú được ở trong cái sức an trú đó. Do cái sự tu tập của chúng ta thì nó an trú trong 2 phút, mà 2 phút thì chúng ta tăng lên, mà nó có niệm thì chúng ta sẽ dùng cái Định Vô Lậu mà chúng ta xả nữa; mà nó không niệm thì chúng ta tăng lên 3 phút, 4 phút.

Có thể khi căn bản chúng ta 1 phút mà đạt được rồi; thì phút thứ 2, chúng ta đạt được rồi; thì phút thứ 3, thứ 4, lên 5 phút không chừng. Nó lên nhanh lắm mấy con bởi vì mình xả nó rồi cho nên nó lên nhanh lắm, nó tự nó thanh tịnh rồi nó lên.

Cho nên khi, thí dụ, chừng 5 phút hay 10 phút mà mấy con đạt được mà mấy con thấy không có niệm: sáng tu không niệm, chiều tu không niệm, 5 phút nó không niệm, buổi tối nó không niệm, buổi khuya nó có niệm thì tôi dừng đó tôi xả. Rồi bữa khác thì buổi sáng nó lại có niệm, mà buổi tối nó không niệm, nó thay đổi, nhưng mà hễ nó lọt vô trong cái dòng thời gian mình tu thì lúc bây giờ nó lọt vô trong đó bao giờ mình cũng xả hết, mình cứ dùng cái Định Vô Lậu mình xả. Và cuối cùng thì nó đã bị xả hết rồi thì nó không còn niệm nữa.

(46:00) Không còn niệm nữa thì bắt đầu từ 5 phút mình cứ tăng lên 10 phút, 30 phút rất dễ dàng, không có khó khăn bởi vì nó căn bản; nó không niệm, nó hết niệm luôn.

Đó, thì mấy con thấy sự tu tập nó căn bản thì nó không bao giờ nó còn niệm mà trái lại mình thiếu căn bản, mình cứ tu chung chung đó, tu cái thời gian mà mình quy định là mình phải tu 30 phút - thành ra nó có cái niệm xẹt ra, xẹt vô. Rồi có khi mình nhiếp tâm - an trú được thì nó lọt trong tưởng mất đi, do đó mình tu hoài mà không có kết quả.

Còn ở đây, mình có cách thức mình tu rồi. Và từ lâu tới giờ mình chưa triển khai cái Định Vô Lậu cho nên khi có cái niệm đến - thường mình tác ý, mình ức chế giống như Thiền Đông Độ; cho nên mình cũng bị lọt trong tưởng nữa, cho nên nó sai!

Còn bây giờ đó, mình triển khai được cái tri kiến của mình rồi - do những cái hiểu biết về vô lậu, do những hiểu biết về Thập Nhị Nhân Duyên, do hiểu biết về Thân Ngũ Uẩn, mình hiểu biết như thật mà; do hiểu biết các pháp vô thường, các pháp vô ngã. Do sự hiểu biết đó bằng cách là mình đã từng triển khai tri kiến của mình cho nên tâm mình thấm nhuần rồi. Cho nên mỗi cái ác pháp, mỗi cái tâm tham, sân, si chúng ta hiện ra tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu hiện ra là chúng ta phá hết rồi, chúng ta đập hết rồi. Cho nên nó không còn tác động đến thân tâm chúng ta thì nó thanh tịnh, mà thanh tịnh thì chúng ta an trú chứ có gì đâu!

À, con hỏi Thầy: “Có mấy cách an trú tâm? Kính xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy!”

Trưởng lão: Đó, hồi nãy giờ Thầy nói có 3 cách: cách thứ nhất - hơi thở, cách thứ 2 - đi kinh hành, cách thứ 3 - thanh thản, an lạc, vô sự; nó 3 cách an trú tâm.

“Lúc này con ít có trạng thái phải ngồi thiền; nhưng hơi thở của con nhẹ, thông suốt và mát lạnh".

Trưởng lão: Nếu hơi thở con như vậy thì con sử dụng hơi thở để an trú. Đó là cái duyên của mình nó có với cái hơi thở, tức là cái đặc tướng của mình; nó thở mà không rối loạn này kia thì mình dùng cái hơi thở mình “nhẹ, thông suốt và mát lạnh” để mình sử dụng trong những đề mục.

Về hơi thở, nó có những đề mục rất cần thiết. Khi mà chúng ta an trú được thân và tâm của chúng ta được rồi thì coi như là có ác pháp gì - chúng ta nương vào đó mà chúng ta đẩy lui rất dễ dàng, tác ý không có khó khăn. Đó là trả lời về câu hỏi.

Còn cái gì mà mấy con thấy chưa hiểu đó, thì hỏi thêm Thầy con! Diệu Đức thấy gì còn chưa hiểu không?

10- NHÂN QUẢ NGHỀ NGHIỆP

(48:04) “Con thưa Thầy, Thầy cho phép con hỏi, nghề nghiệp có phải là nhân quả không? ”.

Trưởng lão: Các con nghe ở trong Bát Chánh Đạo đó, thì nó có cái Chánh Nghiệp - là cái nghề chân chánh. Cho nên vì vậy, có 6 cái nghề mà đức Phật cấm - không cho chúng ta hành những cái nghề đó.

Mà cái nghề tức là hành động làm cái việc đó để kiếm tiền sống. Nhưng mà cái nghề đó mà làm kiếm tiền bằng cách tham lam, bằng cách ác pháp, bằng cách làm đau khổ cho người khác để cho mình có được tiền đó, thì cái nghề đó không phải là Chánh Nghiệp.

Cho nên ở đây, con hỏi đó: "Thầy cho phép con hỏi, nghề nghiệp có phải là nhân quả không? " - Nhân quả đó con! Nó là nhân - con làm cái nghề ác…​ bây giờ làm nghề ăn trộm đi, mình đi lấy của người ta - đó là cái hành động ăn trộm đi.

Bây giờ Thầy làm cái nghề lương thiện chứ gì - Thầy làm một cái điều nó không làm khổ mình, khổ người; cái nghề đó nó vừa nuôi sống Thầy, mà nó vừa lợi ích cho người khác, thì cái đó là nghề nghiệp tốt, nghề nghiệp thiện, tức là cái nghiệp thiện, nó thuộc về nhân quả.

Nghĩa là nói trong thân của chúng ta nó hoạt động một cái gì là có nhân quả hết! Chúng ta ngồi yên như vầy thì nó không nhân, không quả; thanh thản - nó không nhân, không quả; chứ ngồi yên mà cái đầu suy nghĩ tầm bậy cái nó cũng là nhân quả trong đó rồi.

Cho nên chúng ta động dụng gì nó cũng có nhân quả hết, đừng có động dụng nó thôi, tức là nó đừng có hành. Mà hễ nó hành mà vô minh là ác pháp; mà nó hành mà nó “minh” là thiện pháp. Các con hiểu chưa?

Cho nên, nói về cái thân của chúng ta mà nói về nhân quả thì nó là thân nhân quả rồi. Cho nên hễ động dụng một cái là nó có nhân, có quả liền tức khắc!

Bây giờ con hỏi về nghề nghiệp, để ví dụ cho con một vài cái nghề nghiệp. Như Thầy nói cái nghề ăn trộm đi lấy của, cướp giật người ta - đó là hành động làm cho người khác đau khổ.

Rồi bây giờ Thầy nói cái nghề nữa, như cái nghề mà cái người cảnh sát họ đứng họ gác đường; bắt đầu bây giờ có người đó họ chạy xe, họ lạng lách hoặc là họ không có đúng cái luật lệ giao thông, họ thiếu đạo đức giao thông, mà cái ông cảnh sát này thổi "quét, đứng lại" ; ông kia ông đưa cái luồn tiền. Thì ông này là nghề nghiệp xấu chứ đâu có nghề nghiệp tốt - ăn hối lộ thay vì phải phạt người này; để như vậy họ sẽ gây tai nạn giao thông, chết, làm khổ mình, khổ người - biết bao nhiêu cái chuyện không? Cho nên người cảnh sát này phải cảnh giác, phải không nhận tiền ông này, mà ông này lỗi về luật lệ giao thông thì phạt liền tức khắc để chừa cái tật này, thì vậy người ta mới ớn chứ. Còn không - chỉ cần đưa tiền ông ra, ông đút túi ông, rồi cứ đi. Thì như vậy là "có tiền là có thể", vì vậy mà ông này chạy lạng nữa: "Mình có tiền mà, đâu có sợ!". Do đó mà gây ra những cái đau khổ cho người khác. Đó là cái nghề cảnh sát là cái nghề không tốt. Mà cái nghề của người cảnh sát hoàn toàn không ăn hối lộ, thì như vậy nghề cảnh sát đó mới là nghề tốt!

Đó, cái nghề mà con! Đem 1 vài cái ví dụ để con thấy cái nghề.

(50:46) Bây giờ Thầy nói cái nghề tốt: Cái ông bác sĩ là cái nghề rất tốt! Nhưng mà khi người ta có tiền thì ông mới trị, còn không có tiền thì ông để cho bệnh nhân đó chết bỏ thôi - ông bác sĩ đó là cái nghề đó không tốt! Các con thấy không? Một ông thầy giáo cũng vậy, cho bài học trò rồi thì phải kiểm coi nó có copy với nhau không? Mà cái này ngồi ở trên đó, lật cái tờ báo coi, thì như vậy là ông thầy có trách nhiệm không, hết trách nhiệm không? Ông thầy đó cũng là cái nghề nghiệp làm thầy, mà xấu! Các con thấy cái xấu không? Thấy ác pháp không? Trách nhiệm của mình làm không hết, đó là ác pháp!

Một cái ông giám đốc mà lừa công nhân của ông, nghĩa là ông bắt người ta làm cái giờ đó để mà ông ăn riêng hoặc bớt đi cái số lương của công nhân, để ông lợi hưởng. Mỗi người công nhân ông chỉ lợi hưởng 1 đồng, 2 đồng thôi; mà 1 ngàn hay 2 ngàn thì bao nhiêu cái tiền của người công nhân? Thay vì ông phải trả cho đúng cái sức lao động của người ta. Thì cái ông giám đốc đó, cái nghề làm giám đốc đó - nó không lương thiện; tức là cái nghề đó không Chánh Nghiệp; tức là cái nghề - nhân quả đó nó xấu đó!

Đó là 1 vài ví dụ. Cho nên vì vậy, khi nói về nhân quả, các con nói về nghề nghiệp là rất hay, nó thành cái đạo đức nghề nghiệp mấy con. Bởi vì mình nêu cái nghề đó, cái hành động đó ác thì phải có cái hành động thiện rồi.

Cho nên các con nghe tại sao mà Thầy viết về đạo đức con người không? Đạo đức con người thì nói qua nhân quả chứ có gì khác hơn! Mà nói đạo đức nghề nghiệp thì tức là nói về nghề nghiệp người ta sống, để người ta làm ra tiền người ta sống.

Nhưng trong cái nghề nghiệp thì tốt, nhưng mà con người hành cái nghề nghiệp đó xấu là tại vì người ta tham lam; người ta do cái lòng tham lam, muốn cho mình được nhiều cho nên người ta mới hành động đó mà bóc lột kẻ khác, làm hại người khác, để đem lại cái sự lợi nhuận nhiều cho mình, đó là xấu!

Cũng như bây giờ cái người buôn bán, mấy con thấy họ buôn bán nhưng mà thay vì họ bán thì họ phải bán kiếm lời nhưng không được cắt cổ người ta, không được đo thiếu, không được cân non; mà cái này mấy con cân non, đo thiếu; mà hàng xấu - thấy người ta bơ bơ không biết, nói hàng tốt, bán cho được tiền. Do đó là những người hành nghề buôn bán rất xấu, cái nghề nghiệp đó nó có nhân quả ác của nó.

Cho nên đồng tiền mà làm ra đó, thì trong gia đình đó thì có những đứa con nó sẽ lấy cái đồng tiền đó nó phá sạch nên cũng khó mà làm giàu; hoặc là một trận hỏa hoạn nó thiêu sạch, nó cũng không để; bởi vì những người đó là những người xấu.

Cái nhân thì phải có quả chứ! Mình cướp giật bằng mồ hôi, nước mắt của người khác; bằng lừa đảo người ta như vậy, cái nghề nghiệp của mình lừa đảo như vậy thì cái đồng tiền của mình sẽ giữ không được - một là con cái ở trong nhà mình nó sẽ phá, nó sẽ trộm cắp, nó sẽ lấy nó đi chơi hoặc là này kia; nó trở thành những đứa con hư thân mất nết, nó xài tiền cha mẹ nó như vậy.

Còn không thì hỏa hoạn, còn không thì lũ lụt, nó xảy ra cho chúng ta hoặc là những người trong gia đình chúng ta có người đau trầm trệ xảy ra để bao nhiêu tiền của chúng ta đem vào nhà thương, bệnh viện hết.

Đó là những đồng tiền, làm ra cái nghề nghiệp, cái hành động thiện - ác. Cho nên nhân quả đó nó phải trả.

"Ở đây con muốn hỏi Thầy, có những điều kiện mà con không hiểu nhân quả, cho nên con muốn hỏi Thầy để Thầy xác định cho rõ cái nhân quả".

Trưởng lão: Và ở đây, có những cái điều kiện mình xác định không được, cái nhân quả mình không biết ở chỗ nào…​(tiếp theo băng 27B)

HẾT BĂNG


Trích dẫn - Ghi chú - Copy