LCK 022C (NAM) - VẤN ĐẠO THIỀN ĐỊNH - ĐỊNH VÔ LẬU - CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC - ĐƯỜNG ĐI NHÂN QUẢ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh (nam)
Thời gian: 11/2005
Thời lượng: [46:17]
(00:00) Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, con xin hỏi Thầy 1 câu! Bạch Thầy, có 1 câu chuyện thời Phật nói: Có 1 vị đạo sĩ đi kinh hành mà khi sét đánh mà không biết. Thì lúc đó, cái tâm của vị đó nó nằm trong cái thiền định nào? Hoặc là họ có… họ bất động hay là họ… Nhưng mà khi hỏi tới thì trong kinh nói là vị đó không biết sét đánh. Vị đó đi kinh hành vậy, có phải là nằm trong chánh thiền của đạo Phật không?
Trưởng lão: Đây, bây giờ Thầy nói về chánh thiền của đạo Phật là: đức Phật có nói 1 câu chuyện, là có 1 người ngoại đạo đó đến nói với đức Phật là: "Thầy của tôi nhập định, 500 cái xe bò đi ngang mà ông không nghe gì!" Thì ông Phật ông nói: "Ta cũng có 1 lần ta nhập định, thì ta ngồi ở trong 1 cái chòi của 1 người nông dân; mà sét cách đó chừng 200 thước - chết 2 con bò. Ta cũng không nghe". Đó ông Phật nói.
Vậy cái định này nhập cái định nào? Bắt đầu chúng ta mới truy ra thử xem nhập cái định nào mà lại không nghe đây?
Tu sinh 1: Khi ngồi.
Trưởng lão: Ờ, khi ngồi. Thật sự cái định mà của đức Phật nhập nó không phải Tứ Thiền mà là Nhị Thiền mấy con! Bởi vì Nhị Thiền nó diệt tầm tứ. Nó diệt, mấy con nghe chữ diệt - diệt Tầm Tứ. Mà tầm tứ là do ý thức chúng ta. Mà ý thức là nó có 1 cái nhóm thức của nó là: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý mấy con. Có phải không? Nó diệt thì nó phải diệt hết cái nhóm của nó chứ đâu phải diệt… Cho nên lỗ tai nó cũng đâu có nghe, cho nên tiếng sét cũng không nghe - tức là Nhị Thiền đó mấy con. Phải không?
Còn cái ông này, đi kinh hành mà trời sét không nghe đó, không biết ông lọt vào cái thiền tưởng nào chứ? Ông đâu có chuyện mà ông diệt tầm tứ đâu. Có phải không? Ông đi kinh hành - còn diệt tầm tứ thì làm sao đi được mấy con? Con hiểu chỗ đó chưa? Mà ông còn đi mà, có lẽ ông đang ở trong cái tưởng của ông như thế nào đó cho nên trời sét ông đâu có còn nghe.
Đó, thì mình xác định được cái điều kiện của thiền của đạo Phật - Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền của Phật. Mà cái thiền nào mà đức Phật ngồi trong cái chòi mà trời sét cách đó chết 2 con bò, mà đức Phật không nghe? Thì mình xác định bây giờ nó nhập Tam Thiền hay là Tứ Thiền hoặc là Sơ Thiền, Nhị Thiền? Chắc chắn chỉ có cái Nhị Thiền là diệt tầm tứ.
Diệt tầm tứ tức là diệt 6 cái căn của chúng ta: “Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý căn”. Có phải không? Mà diệt thì làm sao nó hoạt động, mấy con? Nó đâu có hoạt động. Cho nên, lúc bấy giờ chúng ta hoàn toàn ở trong 1 cái trạng thái của tưởng. Giống như cái người ngủ mà không còn biết gì hết, không còn nghe gì hết. Đó là cái chỗ mà diệt tầm tứ.
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, như vậy là khi mà 1 người đạo sĩ đó người ta đi kinh hành mà 500 cỗ xe bò đi ngang qua mà không biết thì chắc vị đó không có nhập thật. Vị đó nói không thật rồi?
Trưởng lão: Ờ, nói không thật!
Tu sinh 1: Dạ, không có thiền định nào mà đi như vậy được!
(02:49) Trưởng lão: Không có được! Nhưng mà cái điều kiện của ngoại đạo nó hoàn toàn sai cái sự thật, còn cái thiền của đạo Phật nó thực tế. Mà người ta dùng Định Thần Túc người ta nhập - cái lực rồi. Còn mình có biết cách nào đâu mà có Thần Túc đâu? Ngoại đạo nó đâu có nói có Thần Túc đâu! Thì ông chỉ nhập định tưởng ông thôi. Mà định tưởng ông thì ông nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì may ra xe bò đi không nghe chứ mà ông nhập Không Vô Biên Xứ Tưởng hay Thức Vô Biên Xứ, xe bò nó chạy ngang thì ông động, ông dậy liền tức khắc; tiếng ồn nó làm chướng ngại tu ông đó chứ.
Con có nghe trong cái Ngài mà viết cái cuốn An Ban Thủ Ý không? Thầy Khương Tăng Hội viết cái kinh An Ban Thủ Ý đó. Cho nên nói tiếng ồn là chướng ngại Nhị Thiền đó. Ông ta nghĩ rằng cái tiếng ồn nó làm chướng ngại cho Nhị Thiền, cho nên vì vậy mà ông lấy Thiền Đông Độ ông nói. Thì 500 cỗ xe bò nó làm chướng ngại thì ông làm sao tu được? Ông tỉnh liền chứ gì? Đó cái chướng ngại của Thiền Đông Độ. Nhưng mà ông lấy cái đó ông nói qua cái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền với Tứ Thiền - cho nên cái bài của ông viết rất sai!
(04:02) Tức là vị Tổ sư Khương Tăng Hội. Con biết cái vị sư Khương Tăng Hội mới viết cái bài An Ban Thủ Ý mà nói về Sơ Thiền, Nhị Thiền; ông luận về Sơ Thiền, Nhị Thiền. Thầy biết rằng ông này chẳng biết Sơ Thiền, Nhị Thiền gì hết!
Thầy biết, Tổ Khương Tăng Hội là 1 vị Tổ đầu tiên mà truyền sang khi mà Phật giáo qua Việt Nam mình chứ đâu phải là tay thường. Thế mà viết cái bài kinh - nó còn hẳn hòi đó. Do như vậy mà đọc cái bài kinh, Thầy biết Tổ chẳng biết Tứ Thiền là gì mà dám luận về Tứ Thiền mà nói như vậy - thì nó quá sai, không đúng!
Thật sự ra, cái người mà người ta có nhập được 4 cái thiền của Phật rồi - ai nói sai người ta biết hết. Cũng như bây giờ mà Thầy viết ra rồi, người nào mà nhập được định ở chỗ nào - các con sẽ biết hết, không có dối mấy con được. Những cái luận của Thầy nó vạch rất rõ! Mấy con chưa có Tứ Thần Túc, chưa có Định Thần Túc - mấy con nhập định là mấy con nhập định tưởng hết.
Cho nên bây giờ không có ông thầy nào mà cãi Thầy được hết! Bởi vì 4 cái Thần Túc này để làm gì? Mà Định Thần Túc là để nhập định chứ không phải… Định Thần Túc chúng ta có định rồi mới có Tứ Thần Túc sao? Mấy con hiểu điều đó không? Những cái phương pháp đó là cách thức, cái phương pháp đó để nhập định chứ đâu phải là phương pháp đó để mà chúng ta nhập định rồi có phương pháp đó.
Vậy nhập định có phương pháp thì phương pháp để làm gì? Đó, mình đặt câu hỏi, mình thấy được cái phương pháp của Phật dạy nó rất cụ thể, cho nên nó không có sai đâu!
Bây giờ mấy con còn hỏi gì thêm nữa không?
(05:31) Tu sinh 1: Bạch Thầy, con hỏi thêm. Bạch Thầy, vậy trong 4 cái loại định tưởng đó, thì chỉ có 1 loại định thứ 5 là định Diệt Thọ Tưởng Định là không còn nghe, không còn biết gì hết phải không Thầy?
Trưởng lão: Ờ nó diệt…
Tu sinh 1: Còn 4 cái loại định tưởng kia vẫn còn nghe biết.
Trưởng lão: À, còn chứ con!
Tu sinh 1: Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định?
Trưởng lão: Nó cũng còn, bởi vì nó tưởng mà!
Tu sinh 1: Như vậy phải ngồi mới nhập được chứ đi chắc không được?
Trưởng lão: Đi mà làm sao nhập được ba cái tưởng này? Cũng như con ngủ - con mới chiêm bao chứ con đi thì làm sao con chiêm bao được? Nó đi - nó phải thức chứ làm sao chiêm bao!
Tu sinh 1: Thưa Thầy con hỏi để con xác định theo cái 1 vị đó đi mà 500 cỗ xe bò mà không có nghe, cũng không nhập định?
Trưởng lão: Cũng không nhập định.
Tu sinh 2: Bạch Thầy, ví dụ như ngủ với Nhị Thiền nó khác nhau chỗ nào Thầy?
(06:15) Trưởng lão: Cái ngủ phải không con? Cái ngủ đó, 1 cái tiếng động, mà con ngủ thì 6 cái căn của con nó cũng dừng, nó không hoạt động; nó không hoạt động bởi vì mình ngủ say. Con thấy ăn trộm nó vào lấy đồ, mình đâu có nghe đâu! 2 cái lỗ tai không nghe; cái ý con đâu có nghĩ đâu, nó cũng dừng. Nhưng mà cái diệt tầm tứ nó diệt hoàn toàn, tự nó ngưng hoạt động hoàn toàn. Còn cái này, có người lại vỗ vỗ con thì con hay liền à. Có phải không?
Cho nên cái kia, cái tiếng động lớn không nghe. Còn khi mà con ngủ, con có nghe người ta nói cái người mà họ giã gạo: ngày xưa họ hay giã gạo: "bịch, bịch" thì cái người ngủ là nghe tiếng trống nó đánh. Trong khi cái người ngủ này mới thấy rằng: "Tiếng trống đình nó đánh dữ ta?" Nhưng mà không ngờ là người ta giã gạo. Con hiểu không? Nó cũng nghe đó, nó nghe mà ở trong cái ngủ thì nó qua 1 cái tưởng - nó tưởng là trống đánh. Con hiểu chưa? Nó có nghe chứ không phải là không nghe; bởi vì cái ngủ nó không có diệt cho nên cái hoạt động của nó có cái tiếng động nó làm nó hoạt động trở lại. Con hiểu không?
Cho nên khi mà đang ngủ đó, con đập đập vậy, cái người đó tỉnh lại. Chứ còn cái người mà nhập Nhị Thiền, con lại đập - họ chừng nào mà xuất ra họ xuất chứ con lại lấy cây mà cốt họ cũng không xuất; họ diệt cho nên nó đâu có còn cái cảm giác nữa.
Tu sinh 2: Đập họ cũng không xuất được?
Trưởng lão: Họ không có xuất đâu! Trời sét cái rầm mà họ có giật mình đâu!
Tu sinh 2: Họ không có biết.
Trưởng lão: Bởi vậy ông Phật ông ngồi, ông xuất thiền ông ra: "Tại sao mà có người ta đông vậy cà?"
- Mấy người nông dân: "Chứ nãy giờ ông ở đâu?"
Phật nói: "Tôi ở trong toà"
"Trời đất ơi! Trời sét - chết 2 con bò, sao mà ông không hay biết gì? Ông ngồi đây mà không biết?"
Phải không? Đó là cái định Nhị Thiền của người ta là như vậy đó!
(07:59) Tu sinh 1: Bạch Thầy, nhiều khi Thầy ví dụ về thiền, diệt hết tầm tứ đi, không có tầm tứ. Nhưng mà ngủ, giống như mình cũng không có tầm tứ, Thầy hướng dẫn cho nó dễ hiểu thôi. Chứ theo con nghĩ ngủ nó vẫn có tứ đó, bạch Thầy? Nhiều khi mình hét, tối mình đang hét tự nhiên mình thức dậy, mình biết mình nghe tiếng mình hét mà Thầy?
Trưởng lão: Có chứ con! Bởi vì nó chỉ ngủ là nó nằm im nó ngủ thôi, nó nghỉ ngơi vậy thôi chứ sự thật nó đâu có diệt. Cho nên Thầy nói lại gõ vậy cái nó thức; còn cái tiếng động mạnh - nó nghe. Cho nên, hồi nãy Thầy nói người ta giã gạo mà nó nghe tiếng trống đó, nó nghe chứ nó đâu có phải không nghe đâu, mà nó nghe lầm bởi vì nó đang ngủ. Chứ còn cái kia diệt tầm tứ rồi con, nó đâu còn nghe cái gì đâu, trời sét còn không nghe nữa mà!
Tiếng sét mà, các con thấy không? Cái người mà hơi tu, mấy con mà chưa có đủ cái sức định tỉnh đó, trời sét - tự cái thân của mấy con tự nó phản ứng, nó giật mình liền đó mấy con. Nó làm 1 cái "rầm!" 1 cái - cái thân nó bắn lên liền!
Còn cái người mà người ta đủ sức định tỉnh - người ta tu tập - bình tĩnh lắm, người ta ngồi cứng ngắc, người ta không có giật mình. Còn mấy người yếu yếu, Thầy nói - nó nhổm lên hết! Tự nó động, nó giật chứ không ai làm mấy con. Con thấy nó biết liền. Còn mấy người họ có sức định tỉnh - họ ngồi bất động.
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, như vậy cái biết tức là tứ đó?
Trưởng lão: Tứ đó con! Tứ là biết đó chứ sao con? Mình đang tứ đó chứ, nếu mà mất tứ thì còn gì đâu?
Tu sinh 1: Coi như là như cục đá rồi, như bức tượng rồi!
Trưởng lão: Nghe tứ họ tưởng gì? Cho nên Thầy nói tác ý đó. Bây giờ nó đang tác ý; nó đang biết cái này, cái kia - nó đang tác ý đó chứ. Mình phải hiểu vậy mình mới biết tứ như thật mấy con. Mình hiểu cái tứ đâu phải - tôi phải tác ý, tôi phải nói ra, tôi phải nghĩ này mới tứ. Thôi, trời đất ơi! Tự nó có tứ ở trong đó chứ.
Tu sinh 1: Tầm rồi nghĩ (09:52)…
Trưởng lão: Bởi vậy cái danh từ người ta dùng như vậy chứ phải giải thích, chứ còn không giải thích thì mình hiểu không đúng.
Tu sinh 2: Cái này phải lật từ điển ra, Thầy ha?
Trưởng lão: Ai hỏi Thầy cái gì con? Con hỏi Thầy đi con? Con hỏi lại đi con!
(10:09) Tu sinh 3: Bạch Thầy! Khi con nằm ngủ mà con mê, mà con vẫn còn nằm mê là mình chỉ ăn chay chứ không hề ăn mặn rồi. Mặc dù là những thức ăn mà người ta cho mình ăn mặn, mà mình mê là mình: "Tôi vẫn phải ăn chay, bởi vì tu là ăn chay". Như thế là tỉnh thức hay là vẫn thức?
Trưởng lão: Cái đó là trong giấc mộng con! Nhưng mà con đã huân cái ăn chay đó, cho nên con đã nằm mộng mà có người đem lại cái món mặn, nhưng mà "Tôi ăn chay, tôi không có ăn đâu!" Tức là con đã huân cái sự sống của con ban ngày ăn chay. Thì trong khi mộng - nó cũng thành cái thói quen rồi cho nên trong mộng con không có ăn ba cái món này, con nói lại với cái người mà trong mộng cho con. Còn cái người mà chúng ta mới tu tập ăn chay đó, trong khi đó chúng ta nằm mộng có người mà đem đồ mặn đến, chúng ta ăn luôn, ở trong mộng ăn hết!
Tu sinh 1: Dạ thèm rồi…
Trưởng lão: Rồi đó con!
Tu sinh 3: Bạch Thầy! Cái ý thứ 2 nữa là khi mà con nằm ngủ, thì có những lúc con đã ngủ nhưng có lúc con bị còn mơ mơ màng màng; thì có những hiện tượng nó xảy ra thì con quán, con đuổi nó đi: "Tất cả cái đó là hiện tượng của tưởng, không có thật, phải đi đi!". Thế là tự khắc nó đi, không có cái gì.
Trưởng lão: Đó là con đang huân cái pháp tu để mà đuổi cái tưởng. Thì trong đó, khi con mơ mơ màng màng nó cũng có cái dạng như là nửa tỉnh, nửa mê đó - kêu là hôn tịch đó. Do đó con tác ý, con nhớ cái phương pháp con tu, con tác ý - thì nó ở trong chỗ tỉnh tỉnh, mê mê đó. Nếu mà con chỉ mê 1 chút là con vào trong mộng liền tức khắc; mà này nó còn hơi tỉnh - nó tỉnh lại; nó vô mộng - nó tỉnh lại, do đó con nhớ được cái pháp tu. Nó cũng thành cái thói quen của con tu, con nhắc ý tác ý chứ sao? Bảo nó: “Mày tưởng rồi, mày đi!” Rồi nó hết! Bởi vì con tác ý - nó hết, tức là nó tỉnh lại rồi. Chứ mà không tác ý, nó vô luôn giấc mộng con liền đó!
Tu sinh 1: Dạ bùa chú đó bạch Thầy! Tưởng mạnh lắm đó Thầy! Rinh cả 1 cây cờ cúng dài vậy mà múa vòng vòng vòng vòng, người ta chạy hết trơn đó Thầy! Nhảy xuống như là Trương Phi đó!
Trưởng lão: Rồi bây giờ mấy con còn hỏi Thầy gì nữa không?
(12:15) Tu sinh 4: Bạch Thầy, Thầy hướng dẫn dạy nhiếp tâm và an trú, cái điều đó là đúng rồi nhưng mà cái phương pháp để mà nhiếp tâm với an trú phải là Định Vô Lậu, phải vậy không?
Trưởng lão: Không phải Định Vô Lậu mà nhiếp tâm, an trú. Định Vô Lậu là triển khai cái tri kiến của mình để hiểu biết các pháp như thật để nó ly tham, sân, si - tức là ly dục, ly ác pháp thì đó là Định Vô Lậu. Còn cái nhiếp tâm, an trú là cái định Chánh Niệm Tĩnh Giác. Nó 2 cái định nó khác nhau con.
Cho nên ở đây nó 2 cái phần: 1 phần Chánh Niệm Tĩnh Giác và 1 phần triển khai cái tri kiến giải thoát - là cái phần Định Vô Lậu để nó quét sạch những lậu hoặc. Nó hai phần chứ không phải 1 phần được!
Định Vô Lậu - nó không phải ở Chánh Niệm Tĩnh Giác được. Rồi nó triển khai cái tri kiến, cái sự hiểu biết của chúng ta để đương đầu với các ác pháp mà nó xả cái ác pháp ra, nó thấy các pháp như thật.
Còn cái phần mà Chánh Niệm Tĩnh Giác là đi kinh hành, hơi thở; đó là tập những cái đó là Chánh Niệm Tĩnh Giác chứ nó không phải định. Nó Chánh Niệm Tĩnh Giác thôi, để cho cái sức bình tĩnh, định tỉnh của chúng ta.
Cho nên trong khi mà chúng ta muốn nhập các định, muốn thực hiện Tam Minh thì đức Phật có nói: "Tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng" - tâm định tỉnh tức là Chánh Niệm Tĩnh Giác; nhu nhuyễn, dễ sử dụng tức là Định Vô Lậu. Phải không?
Con thấy 2 cái định nó rõ ràng, mà 2 cái này phải tu hết chứ tu 1 cái thì không được - nó không đủ. Mà nó không đủ thì tâm nó không định tỉnh, không nhu nhuyễn, không dễ sử dụng thì coi như là mình không nhập được các định. Đó là mình không thực hiện được Tam Minh.
Tu sinh 4: Dạ bạch Thầy, trong trường hợp mà lúc nào mình cũng phải giữ Chánh Niệm Tĩnh Giác, như vậy là đúng nhưng mà như vậy là có ức chế hay không?
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên, mình tu sai là bị ức chế, còn mình tu không sai là không bị ức chế. Cho nên, do cái sự hướng dẫn của 1 vị thầy thì Chánh Niệm Tĩnh Giác không được ức chế! Cho nên người ta dạy cho mình đúng cái sức, cái đặc tướng của mình. 1 người, tu trong 1 giây - người ta dạy tu trong 1 giây, chứ không được tu 2 giây. Vì tu 2 giây là bị ức chế.
Tu sinh 5: Thưa Thầy, làm thế nào để cho mình nằm xuống - bây giờ tôi ngủ thì ngủ tức khắc chứ đừng để nằm đó mà ngủ hồi nào không hay?
(14:30) Trưởng lão: Như vậy thì con làm chủ cái ngủ, như vậy là phải làm chủ cái ăn. Sáng nó đói bụng rồi thì con bảo: "Giờ này là không được ăn!" Thì dùng cái pháp tác ý, thì nhất định là không ăn, chết bỏ - không ăn. Sau đó 1 thời gian sau thì sáng nó không có đói bụng nữa - thì con làm chủ được cái ăn.
Vậy thì cái ngủ nó cũng y như vậy. Bây giờ con nằm ngủ mà nó không chịu ngủ thì còn tác ý: "Giờ này là giờ mày ngủ, mày không ngủ lát nữa mà thức tu thì phải thức chứ không được ngủ!" Con nhắc nó như vậy. Thì mỗi lần con ngủ con đều nhắc như vậy thì trong 1 tháng, 2 tháng sau đó tới chừng ngủ thì con nằm xuống bảo: "Giờ này ngủ!" thì chút xíu nó ngủ à!
Tu sinh 5: Dạ, cái đó thì con làm chưa được; chứ còn giờ, cái ăn mà nghỉ 10 bữa, 20 bữa con chịu được, mà con không đói.
Trưởng lão: À không! Ở đây có ăn, nhưng mà ăn đúng giờ; chứ còn nghỉ ăn thì không được! Ở đây thì không có dạy không ăn, mà dạy ăn. Nhưng mà tới giờ ăn - cho ăn, kêu là ăn điều độ. Giờ ăn là ăn, mà giờ không ăn - nhất định không ăn!
Còn giờ ngủ cũng vậy, tới giờ ngủ là ngủ, giờ thức là thức, chứ không có được ăn ngủ phi thời. Đạo Phật là vậy, dạy làm chủ. Cho nên Thầy nói cái ăn bây giờ con làm chủ được rồi thì cái ngủ phải làm chủ chứ. Phải không? Con sai nó bằng cái pháp tác ý chứ gì? Thầy muốn nói đó là cái phương pháp Như Lý Tác Ý mà điều khiển được cái ăn, cái ngủ của mình chứ không gì hết.
Mà cái gan dạ hay là cái không gan dạ. Gan dạ thì không sợ, cho nên dẫn nó vô cái ăn được, nó quen đi; còn cái ngủ cũng vậy, bởi vì cái cơ thể và cái tâm chúng ta sẽ thích nghi. Khi mà chúng ta hướng dẫn, điều khiển nó, nó sẽ thích nghi được cái môi trường, cái cách thức sống của nó; nó sẽ sống đúng theo cái sự điều khiển của con bằng cái tác ý. Phải không? Như vậy là pháp Phật có cái điều kiện dẫn nó mà, làm chủ mà!
(16:25) Thì các con thấy là tất cả nè: ăn cũng làm chủ nè, ngủ cũng làm chủ nè, rồi bệnh cũng làm chủ nè, chết cũng làm chủ nữa. Có phải đúng không? Bây giờ ăn là con bảo: "Giờ này là giờ mày ăn là ăn! Mà mày ăn không được tao đổ nước vô, tao quậy, tao đổ cho mày nuốt, chứ đừng có nói chuyện mà không ăn!" Bắt đầu nó mới ráng ăn chứ gì?
Mình làm chủ mà, tới giờ này nó ăn mà nó không muốn ăn là nó sanh chuyện rồi đó! Thì lấy nước đổ vô, quậy cơm ra, đổ vô, nuốt! Thì nó nuốt cho hết bát cơm thôi. Thì đó là mình làm chủ cái ăn; chứ bây giờ mày không ăn: "thôi tao được rồi" - lát nó bày đặt nó đòi ăn vặt đó.
Tu sinh 5: Dạ! Con làm chủ cái sự ăn uống. Người ta cho ăn cái gì, ăn nấy; không phải thiếu miếng nước tương, chạy đi kiếm; hay miếng dầu cay, chạy đi kiếm. Người ta cho ăn cái gì, ăn tự nhiên, chứ không đòi hỏi gia vị thưa Thầy!
Trưởng lão: Đúng, như vậy là con như vậy đúng! Còn bây giờ nếu mà: "Không có trái ớt, bữa đó tôi ăn không được!" Thì mấy người này là chết, không có làm chủ cái ăn này. À, rồi phải trồng mấy cây ớt để hái vô ăn cho nó đã cái miệng thì mấy người này là bị bệnh ghiền, ghiền ớt! Như vậy là sai! Bây giờ người ta cho mình, không có muối - bữa đó là ăn lạt chút có sao đâu! Cứ ăn, không có gì hết! Người tu mà, mình làm chủ cái ăn mà - ăn để sống chứ đâu phải ăn để chạy theo dục!
Cho nên Thầy thấy mấy người mà hái ớt đồ ăn là mấy người này bị ghiền ớt - thì sai. Cô Út cho, có thì ăn, không có thì thôi. Bữa đó, ăn không có ớt cũng bình thường. Đó là cái làm chủ ăn.
Còn cái ăn uống phi thời là ăn sai giờ. Ngủ cũng vậy, ngủ phi thời cũng là ngủ sai giờ. Tới giờ ngủ, không ngủ ráng chịu; tới 02 giờ thức dậy là thức dậy chứ đừng có nói: “02 giờ tôi buồn ngủ quá trời, thôi ráng ngủ để có sức đặng mà tu”. Thì cái này không được! Đối với Thầy là phải làm chủ cái ngủ, còn muốn làm chủ cái ngủ thì pháp Như Lý Tác Ý. Bây giờ chưa được, ngày mai sẽ được; ngày mai không được, ngày 1 sẽ được; 1 năm này chưa được, 1 năm sau sẽ được.
Cái sức bền chí của người tu - làm chủ là phải làm chủ chứ còn không thua nó đâu! Chứ con thấy: "1 tháng tôi tu tập nhắc nó mà giờ nó cũng nằm vậy, nó không chịu ngủ. Thôi không có cách nào, tôi lấy liều thuốc ngủ uống cho nó ngủ cho nó đỡ hơn chứ còn tác ý hoài nó mệt". Thì đừng có làm cái chuyện đó! Bền chí thì mấy con sẽ dẫn dắt bằng phương pháp để làm chủ nó.
(18:36) Cho nên cái đau cũng vậy mấy con. Khi thân có bệnh mấy con tác ý, nó sẽ hết bệnh, mấy con. Rồi cái chết của mấy con cũng tác ý, nó sẽ chết chứ sao? “Tịnh chỉ hơi thở! Ngưng đi, hôm nay tao bỏ thân này!” Nó sẽ ngưng hơi thở - chết. Cái làm chủ mà; bởi vì đức Phật nói làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà.
Tu sinh 5: Cái đó con làm được, nhưng mà nó đau quá thì không có làm được!
Trưởng lão: À, nó đau quá không có làm được thì như vậy là không làm được.
Tu sinh 1: Đau quá, uống thuốc cái hết liền.
Trưởng lão: Đau quá con làm chủ không được, tôi uống thuốc cái tôi đầu hàng rồi còn cái gì? Đó là cái không đúng rồi!
Tu sinh 5: Ví dụ bây giờ nhức đầu, nếu mình kêu "Hết nhức đầu!" - nó hết tức khắc thưa Thầy!
Trưởng lão: Ừ, thì cái đó là cái nghiệp lực con nó nhẹ, về cái phần đau đó nó nhẹ - con bảo nó hết liền. Nhưng mà bây giờ nó đau cơ, con bảo hoài nó không hết, thì bắt đầu bây giờ phải làm sao đây? "Mày không hết thì kệ mày, đau cho biết! Bởi vì thọ là vô thường, đâu phải của tao đâu sao tao sợ!". Cho nên bây giờ ta nhiếp tâm vào trong hơi thở nè; cái tâm mình nhiếp trong hơi thở, biết hơi thở ra - hơi thở vô, an trú trong hơi thở.
Mà con đã từng tập an trú được rồi thì con an trú trong đó thì cái đau nó còn không? Nó hết đau rồi chứ gì? Mà hết đau, tới chừng con xả ra thấy cái bụng mình bây giờ ung thư nó không còn đau nữa. Thì như vậy là tao đẩy lui mày đi được. Có cái gì đâu?
Còn này con an trú không được - trời ơi nó đau càng lúc nó càng đau hơn nữa; ráng chịu đựng nó lại đổ mồ hôi, tháo mồ hôi, run người lên hết! Thì như vậy là nó đánh con đó, nó đang tấn công con đó! Thì bây con phải tấn công bằng cái phương pháp nhiếp tâm và an trú, con. Cho nên, Thầy mới dạy Chánh Niệm Tĩnh Giác - tỉnh thức con để làm gì? Mà bây giờ đó, căn cứ vào chỗ này mà Thầy dạy mấy con để đối trị với những cái khổ trên thân của mấy con, chứ không có gì đâu. Nếu mà nhiếp tâm không được, an trú không được thì nó đau quá - mấy con chắc chắn là "Thôi, đi bác sĩ cho rồi. Cái kiểu này chắc chết!”, thì nói như vậy đầu hàng rồi.
(20:23) Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, ngày nào con cũng phải ngồi tu Định Niệm Hơi Thở 1 đến 2 tiếng đồng hồ, bạch Thầy. Tuy rằng con vẫn đi kinh hành nhưng mà con quen với môi trường con tu Định Hơi Thở ở bên Miến Điện hoặc là ở bên các trường thiền khác rồi; nhưng mà ngày nào con cũng phải tu 1 - 2 tiếng. Như vậy thì con có thể, con có phải tu nhiếp tâm lại bài bản từ đầu hay sao?
Trưởng lão: Bài bản, đàng hoàng để nhiếp tâm cho được. Trước kia con tu 1 - 2 tiếng đồng hồ nhưng mà cái chất lượng nó không có được trọn vẹn. Có lúc thì nó an trú tốt nhưng có lúc thì nó không được; nhưng mà ngày nào thì cũng phải có hơi thở chứ không ngồi tu hơi thở thì thấy nó buồn bực, nó làm như cái thói quen. Nhưng mà cái chất lượng phải đạt cho được, lúc nào cũng phải đạt được. Thì cái vấn đề đó trở về căn bản. Cũng tu chứ không phải là không tu, nhưng mà bây giờ thay vì con tu 1 giờ - con ngồi liên tục chứ gì? Con không ngồi liên tục mà con tu từng phút để đạt được chất lượng. Hễ phút này xong rồi con xả nghỉ; con tu được phút khác, xả nghỉ; cũng đúng trong 1 giờ đó. Có xả nghỉ để mà giữ chất lượng cho nó.
Tu sinh 1: Bạch Thầy, bây giờ thường là con ngồi kiết già nhưng mà bây giờ mà tu 1 phút, xả ra thì bắt đầu nó cũng khó khăn đó.
Trưởng lão: Nó lại làm biếng vậy?! Ngồi kiết già đàng hoàng mới tu 1 phút rồi xả ra, rồi mở kiết già ra rồi bắt đầu ngồi tu lại 1 phút, kéo lại cho đàng hoàng, lưng thẳng đàng hoàng. Chịu khó vậy coi!
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy! Khi mà mình nhiếp tâm 1 phút rồi, thì trong lúc đó con nhiếp tâm 1 phút mình thấy mình nhiếp tâm được 1 phút. Bây giờ con lại tác ý để xả tâm nữa được không, bạch Thầy? Chẳng hạn như bây giờ con nói: "Hít vô, tôi biết tôi hít vô" rồi mình lại nhiếp tâm, mình an trú nó được 1 phút. Thì đó, thì con biết là mình đã nhiếp tâm nó rồi, an trú rồi thì lúc đó con lại tác ý quán ly tham, ly sân, ly si.
Trưởng lão: À con thấy cái chất lượng mà chỗ nhiếp tâm 1 phút nó đã không có, nhiếp tâm - an trú trong 1 phút chứ gì? Thì bắt đầu bây giờ đó, con thay vì con xả con nghỉ chứ gì, con không xả nghỉ mà lại con dùng cái sự an trú mà con hồi nãy an trú 1 phút đó thì con tác ý để xả cái tâm con: "Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô; quán ly tham, tôi biết tôi thở ra", rồi cũng nương hơi thở ra - vô mà quán ly tham. Rồi trong 1 phút mà quán ly tham rồi thì tôi trở về nhiếp tâm, tôi không quán nữa. Con hiểu chỗ đó không? Để mà tôi an trú cho được, sau này rồi tôi mới: "Quán ly sân, tôi biết tôi hít vô; quán…".
Rõ ràng là con tu 1 phút này rồi 1 phút kia đó nó xả ra. Thì cái đó là cái thiện xảo của con để dùng cái an trú của cái phút đầu này để mà xả cái tâm của mình. Thì đó đều được, tốt chứ đâu có gì, đâu có sao. Nhưng mà cái chất lượng của con vẫn có 1 phút đó thôi.
(23:02) Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, như thế này: là ví dụ như con trong lúc đang ngồi 1 phút. Thì ví dụ như con có thể tác ý 1 hơi thôi, chỉ hít 1 vài hơi thì nó đã nhiếp tâm rồi chứ nó không đợi nhiều. Trong lúc mình tác ý nó rồi, thì 1 vài hơi thở nó đã nhiếp tâm, thì trong đó đúng ra thì 1 phút là con chỉ tác ý 1 lần thôi; nhưng bây giờ nó đã nhiếp tâm, nó an trú luôn trong 1 vài hơi thở; sau đó thì bây giờ con phải có dùng tác ý để xả cái tâm trong lúc cho nó hết 1 phút không? Hay là con phải để yên cho nó nhiếp tâm đó thôi?
Trưởng lão: Nếu mà nhiếp tâm mà con tiếp tục nhiếp tâm thêm thì nó 2 phút. Còn bây giờ con muốn xả tâm thì con chỉ ở 1 phút đầu đó nó đã nhiếp vô rồi ha; thì bắt đầu bây giờ con xả, thì con nương vào cái chỗ đề mục mà xả - quán ly tham, quán ly sân để mà xả tâm đó - thì con sẽ xả tâm đó. Còn nếu mà con muốn tiếp tục an trú nữa thì con nhắc tác ý đó: "An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra", thì bắt đầu nó thở ra - thở vô cho nó an trú nữa. Rồi bắt đầu bây giờ con muốn an trú nữa, thêm 1 phút nữa thì con tác ý 1 lần nữa. Mà nếu mà con không có tác ý đó, mà con muốn xả thì con tác ý con xả - an trú để xả tâm mà. Con thấy những cái đề mục của đức Phật không? Từ an trú thân, rồi an trú tâm, rồi mới quán ly tham, quán ly sân, si đó. Đức Phật sắp xếp những cái thứ tự cho chúng ta 5 cái Định Niệm Hơi Thở rất rõ ràng phải không?
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy! Như thế này: ví dụ như con không có dùng cái: "Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra", vì nhiều khi con dùng: "Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô; quán ly tham, tôi biết tôi thở ra", thì con chỉ vài ba hơi thở nó cũng đã nhiếp tâm rồi, bạch Thầy!
Trưởng lão: À thì cái đó nó cũng nương vào hơi thở rồi nhưng mà cái quán ly tham, quán ly sân - con chỉ dùng như là "Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra"; bởi vì con chưa nhiếp tâm, chưa an trú tâm thì cái hiệu quả của quán ly tham, quán ly sân nó không bằng cái kia mình nhiếp tâm - an trú. Cho nên, bây giờ đầu tiên con vô con phải đi theo cái thứ tự; chứ còn bây giờ vô mà chưa có nhiếp tâm được mà mình quán ly tham rồi cái bắt đầu từ đó con mới nhiếp tâm vô thì nó…
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, nó chỉ cần 1 vài hơi thở nó cũng đã nhiếp vô rồi Thầy!
(25:18) Trưởng lão: Thầy biết rồi, nó sẽ nhiếp nhưng mà điều kiện là con dùng cái đề tài nó trật- cái đề mục mà để tu nó trật. Thay vì đó mình phải: "Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra" để cho nó nhiếp vô cái hơi thở đã; rồi bắt đầu mới an trú trong cái hơi thở thì mới tác ý "An tịnh tâm hành…; an tịnh thân hành…" đó. Thay vì mình phải an tịnh thân trước rồi mới an tịnh tâm; rồi sau khi an tịnh nó được rồi thì mới là quán ly tham, quán ly sân, quán ly si. Nó phải đi theo thứ tự.
Tu sinh 1: Bạch Thầy, con thấy những lúc mà mình ngồi nhiếp tâm, an trú được tốt - mình xả ra thì nó rất là uổng. Vì nếu mà mình cứ để cho nó xả cái tâm mình thì nó khỏe hơn - tham, sân, si nó đi thì tốt quá, mà mình cứ buông nó ra hoài.
Trưởng lão: Nếu mà con tiếc thì như vậy nó không có lợi cho con. Nó không có tiến là vì con kéo dài nó sẽ có những cái niệm khác hoặc là có những cái động khác. Cho nên con chủ động con điều khiển con vào, chủ động con điều khiển con ra thì nó mới là cái sự chủ động của mình dẫn các pháp vô, chứ không phải là để các pháp dẫn mình.
Còn bây giờ, con thấy nó an trú được rồi - nó thích quá, thôi cứ ngồi luôn; thì sự thật - mai mốt nó không an trú được, nó chướng ngại thêm con nhiều. Đó con hiểu không? Cho nên dừng, dẫn cho nó vô an trú. Mai mốt mình dẫn nó vô an trú; rồi tới cái giai đoạn nào đó mình sử dụng theo cái giai đoạn ấy, định niệm ấy để cho mình xả tâm thôi. Đó cái mục đích như vậy!
Mà cái chính ở đây thì chúng ta thấy là về cái xả tâm "quán ly tham, quán lý sân, quán ly si" thì chúng ta dùng cái tri kiến của chúng ta đã đủ sức để mà ly dục, ly ác pháp rồi - bởi vì nó Định Vô Lậu mà. Còn cái vấn đề mà an trú thân và tâm của chúng ta là cách thức để mà chúng ta ở trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu trên thân của chúng ta. Thì cái an trú thân tâm, nhiếp tâm - an trú cho được trong hơi thở để mà chúng ta xả cái cảm thọ chúng ta. Thì cái này nó thực tế và cụ thể hơn.
Cái sức định tỉnh này, nó an trú được này nó sẽ xả cái đau đớn ở trên thân, cái cảm thọ trên thân chúng ta. Bởi vì chúng ta an trú là nó sẽ không có còn cảm giác đau đớn nữa hoặc là nó không còn cảm giác nữa; để rồi chúng ta an trú được cái bệnh của chúng ta, nó sẽ giảm, lần lần nó sẽ hết. Nó hơn là 1 liều thuốc gây cho chúng ta cái cảm giác ngủ đó. Nó hơn cái liều thuốc này vì mình an trú được - mình không thấy đau.
(27:40) Tu sinh 1: Bạch Thầy, ngày nào con cũng phải ngồi như vậy. Nếu không ngồi con cảm thấy nó mỏi. Nếu nó mỏi là con vô con ngồi tác ý vài lần nó hết. Thế nên con giống như là bệnh ngồi đó Thầy.
Trưởng lão: Bệnh ngồi.
Tu sinh 1: Vài tiếng được không Thầy?
Trưởng lão: Thì do cái vấn đề mà tu tập đó thì mình tu làm chủ chứ đừng có để thành bệnh. Bệnh ngồi - không ngồi chịu không được! Phải không? Con thấy không, mình không ngồi thì cũng bình thường thôi, chứ không khéo nó buộc cái giờ này phải ngồi chứ không ngồi chắc không được.
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, 1 điều nữa bạch Thầy! Trong lúc mình đi kinh hành, mình phải tác ý đi kinh hành thôi hay là mình có thể tác ý dạng như là: "Quán ly tham, tôi biết tôi đang đi"?
Trưởng lão: À được chứ, hoặc là: "Tâm như cục đất, tôi đang đi kinh hành" hoặc là con tác ý cái gì cũng được hết à!
Tu sinh 1: Vậy mà mình nhiếp tâm được rồi?
Trưởng lão: À, nếu mà mình nhiếp tâm được thì cứ quán câu khác.
Tu sinh 1: Con cũng thấy con cũng dùng nhiều cái pháp, nhiều khi con lại tác ý: "Tâm như cục đất, ly tham, sân, si; tôi biết tôi đang đi!" Thế rồi mình đi. Nhưng mà con nghĩ không biết rằng có trúng không nữa? - Nhiếp tâm tốt.
Trưởng lão: Ở đây, bằng ngày bây giờ Thầy nhắc…
Tu sinh 4: Thầy cho con hỏi! Nếu con không tác ý mà con đi suốt - nhiếp tâm hoài, con không tác ý để con đi hoài cả tiếng đồng hồ có sao không Thầy?
Trưởng lão: Con cũng cảnh giác, bởi vì nhiều khi con đi hoài vậy đó - mà cái tưởng con nó hoạt động nó đi, chứ không phải là cái ý thức của con. Cho nên mình phải cảnh giác, coi thử cái ý thức mình còn hay là nó bị tiêu mất rồi.
Tu sinh 4: Vậy là phải tác ý hả Thầy?
Trưởng lão: Coi như là phải tác ý để xem coi; chứ không khéo mình thấy nó an trú rồi nó không niệm rồi mình cứ đi hoài, đi hoài… Cái tưởng nó vô nó đi hoài, đi hoài đó. Coi chừng nó lọt trong tưởng, cho nên mình cảnh giác, mình tác ý thử coi nó còn hay nó mất.
(29:19) Tu sinh 6: Kính thưa Trưởng lão, con xin hỏi câu hỏi này. Giữa cái tri kiến với cái Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, cái nào dễ thành công hơn?
Trưởng lão: Cái tri kiến Định Vô Lậu hả? Cái thành công của nó dễ hơn là cái Chánh Niệm Tĩnh Giác. Bởi vì Chánh Niệm Tĩnh Giác nó ức chế để nó phá cái si của mình thôi. Chính cái ly tham, sân của Định Vô Lậu nó có cái phần giúp cho cái Chánh Niệm Tĩnh Giác rất cao.
Tu sinh 6: Ý của con là con hỏi giữa 2 cái này: cái tri kiến với cái Định Chánh Niệm Tĩnh Giác - cái nào mình thực tập nó dễ thành công hơn?
Trưởng lão: Cái tri kiến giải thoát nó dễ thành công hơn cái Chánh Niệm Tĩnh Giác. Bởi vì Chánh Niệm Tĩnh Giác lơ mơ là lọt vô trong tưởng - nó khó lắm! Mà cái người hướng dẫn cũng cực khổ vì cái phần này nữa. Nó dễ sai và nhiều khi nó không thành công được. Cái Chánh Niệm Tĩnh Giác nó khó lắm; bởi vì cái phần đó, mình sai 1 chút là bị ức chế tâm rồi. Còn cái triển khai cái Định Vô Lậu - cái tri kiến giải thoát nó dễ lắm!
Dù bây giờ người nào mà học nó có dở đi nữa, người ta cũng triển khai được 1 phần nhỏ nào trong đó, chứ chưa phải người ta bị bít lối - nó có lợi ích cho mình - làm cho cái sự hiểu biết của họ như thật mà! Dù cái người đó có đặc tướng thông minh, người ta có cái duyên của cái pháp Định Vô Lậu, người ta hiểu biết sâu rộng - người ta triển khai dễ dàng. Còn cái người mà u tối, người mà không có thông minh, họ chỉ hiểu rất ít, do đó triển khai nhưng mà họ vẫn có hiểu.
Là con người thì người nào cũng có cái tri kiến hết. Nhưng mà cái tri kiến đó nó hạn hẹp ở trong cái sự hiểu biết của họ, họ không có rộng rãi ra, họ không có sâu sắc hơn. Do đó, cái người mà tri kiến như vậy họ vẫn có sự giải thoát chứ không phải không có sự giải thoát - mà nó không có lệch đâu được hết.
Bởi vì, vốn con người phải có cái tri kiến rồi; bởi tri kiến nó được thêm 1 cái phần hiểu biết thì nó lợi cho người đó. Ví dụ như bây giờ mọi người về đây, dù là người có thông minh, có viết bài rất hay, có quán xét về Định Vô Lậu rất là tuyệt vời; thì cái người mà vẫn ngồi đây nghe Thầy mà họ viết cái bài rất ngắn, rất gọn của họ như cái sự hiểu biết của họ thôi, nhưng mà họ có sự hiểu biết họ mới về đây tu. Chứ còn họ không có sự hiểu biết, họ không về đây tu. Họ hiểu biết, rồi cái duyên họ gặp được giáo pháp, họ mới có cái tâm tha thiết, họ mới bỏ, họ mới về đây tu - tức là nhờ cái tri kiến. Chứ cỡ không có tri kiến - họ không biết; thì giờ có sách Thầy đưa tới họ, họ cũng chẳng thèm liếc gì nữa thì làm sao họ về đây tu? Cái tri kiến nó quan trọng và lợi ích rất lớn!
(32:00) Cho nên cái nền đạo đức của đạo Phật là cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả thì cái tri kiến quan trọng rất lớn! Và chúng ta thấy 8 cái lớp học của đức Phật - cái Chánh Kiến rất là quan trọng, quan trọng hơn là cái Chánh Tư Duy. Mấy con thấy không? Cái Chánh Kiến tức là nhìn vào mọi sự vật, thấy như thật, biết như thật mà - đó gọi là Chánh Kiến.
Cho nên, làm sao triển khai cho người ta nhìn các pháp như thật - đó là Chánh Kiến. Rồi muốn có được Chánh Kiến thì phải có Chánh Tư Duy - bắt buộc người ta phải có sự suy tư, triển khai cái hiểu biết đó ra thì nó mới có được cái Chánh Kiến. Đó các con thấy không? Cho nên làm bài làm này mà các con không có sự suy tư thì các con làm sao làm? Cho nên nó phải có tư duy.
Cho nên cái Chánh Kiến với Chánh Tư Duy nó gắn liền với nhau, nó không thể xa ra được. Còn tới cái giai đoạn Chánh Ngữ là có thể cách biệt được rồi đó, nó cách biệt với lớp khác à. Buộc lòng khi mà Chánh Kiến, Chánh Tư Duy rồi người ta mới hướng dẫn mình cách thức để dùng cái ngôn ngữ nói, nói những cái ái ngữ chứ không có được nói những cái ác ngữ. Đó là lần lượt mình đi đến.
Rồi cái Chánh Nghiệp: là cái hành động của chúng ta hàng ngày đối xử, làm công ăn việc làm này kia - nó thuộc về Chánh Nghiệp; thì lúc bấy giờ chúng ta mới nhắc đến. Cũng như bây giờ trong cái bài mà nhân quả chúng ta nói về cái thân hành đó - đó là cái Chánh Nghiệp đó mấy con. Cho nên cái bài nhân quả từ Chánh Kiến mà nó đi đến cái chỗ Chánh Nghiệp của cái lớp Chánh Nghiệp. Nhưng mà bây giờ chúng ta chưa học lớp Chánh Nghiệp; nhưng mà vì chúng ta học lớp Chánh Kiến buộc lòng chúng ta phải hiểu nhân quả.
Mà chúng ta hiểu nhân quả rồi thì Chánh Tư Duy cũng phải Chánh Tư Duy nhân quả. Chánh Ngữ thì chúng ta cũng nói ở trong cái nhân quả thiện - ác của nó chứ, chúng ta đâu có chuyện ngoài đâu. Rồi Chánh Nghiệp rồi Chánh Mạng đều là nằm ở trong nhân quả hết. Cho nên tất cả các lớp này chúng ta triển khai từ cái căn bản chúng ta ở trong cái Chánh Kiến để rồi triển khai tất cả các pháp khác thì chúng ta sẽ dễ dàng học Phật. Nó tiến bộ rất nhanh.
(33:58) Tu sinh 6: Kính thưa Trưởng lão! Con xin hỏi thêm, như bản thân con là hầu như con thấy tất cả mọi người ở trong lớp học này cũng đặt nặng vấn đề về Chánh Niệm Tĩnh Giác, tức là cái sự nhiếp tâm và an trú. Chứ phần đông là mọi người vẫn chưa chú ý trên cái vấn đề viết bài, về cái tri kiến ấy.
Con lấy 2 cái trường hợp của quá khứ và cái hiện tại: tức là đức Phật bắt đầu vô tu tập cũng đi từ cái Chánh Niệm Tĩnh Giác đi vô. Sau khi đó, 1 thời gian mình nhiếp tâm, mình an trú được rồi, lúc đó mới mở cái tri kiến ra. Con thấy hầu như là cái vấn đề này là chính đó!
Trưởng lão: Không phải chính, con đã hiểu sai! Cho nên đức Phật đã hiểu biết rất rõ ràng - dạy chúng ta đi vào cái chỗ Chánh Kiến. Con thấy không? Đâu có dạy chúng ta vào Chánh Định, mà Chánh Định lại đặt ở sau; cái Bát Chánh Đạo - nó lại sau cùng, con thấy không?
Cho nên đức Phật thấy cái lỗi của mình; Thầy 9 năm mà phải chi có người hướng dẫn đúng Chánh Kiến thì Thầy đã không uổng 9 năm. Mà đức Phật - phải có 1 vị thầy dạy đúng thì đức Phật đâu phải 6 năm khổ hạnh. Các con hiểu điều đó!
Cho nên đức Phật đưa ra cái chân lý - cái Đạo Đế là cái chương trình giáo dục đào tạo, mà cái Chánh Định nhét ở sau. Buộc lòng chúng ta triển khai cái tri kiến trước tiên - tức là Chánh Kiến đó mấy con! Thấy cái lớp học của đức Phật nó rõ ràng - lớp nào trước, lớp nào sau; rõ ràng, cái chương trình giáo dục của người ta rõ ràng. Chứ phải chi đức Phật nói Chánh Định - để rồi từ trong định mới khai triển thì nó phải đặt trước chứ. Con hiểu không? Như vậy là con hiểu sai đó!
Đức Phật đã khổ, 6 năm khổ. Thay vì người ta chỉ tu học nó có 1 thời gian ngắn à con. Thay vì phải 6 năm khổ hạnh gần như muốn chết - Thầy 9 năm khổ sở con cũng biết, ăn từ cọng rau mà để sống các con biết nó hành hạ cơ thể Thầy 1 cách bệnh nào các con biết không? Các con đâu có hiểu được cái nỗi khổ khi mà ăn uống như vậy nó sẽ diệt cái cơ thể, nó làm cái cơ thể Thầy như thế nào mấy con biết không? Mấy con đâu có biết cái khổ hạnh của 1 người tu như vậy!
Và đức Phật - các con thấy đứng không nổi khi mà khổ hạnh. Cho nên khi mà Ngài tu chứng - Ngài thấy được cái chân lý rồi, Ngài biết cái này là sai hoàn toàn, cho nên Ngài đập sạch các pháp của Bà La Môn xuống hết. Các con cứ đọc trong kinh Nguyên Thủy, Ngài đập sạch mà, Ngài không chừa cái nào hết!
Cho nên tại sao mà Thầy đập giáo pháp của Bà La Môn - giáo pháp của Đại thừa? Chỗ nào Thầy cũng đập nó được hết! Bởi vì Thầy thấy Thầy khổ, là mọi người đang tu hành cũng khổ, chẳng đạt được gì mà không đập thì tội cho người ta quá! Mình được rồi - mình thương xót người ta vô cùng! Cho nên đức Phật cũng vậy, 6 năm khổ hạnh; nói lên những cái bài pháp mà đức Phật đập Bà La Môn sạch! Bà La Môn đúng và Bà La Môn sai! Nó rõ ràng.
Còn Thầy ở đây: Đại thừa đúng và Đại thừa sai! Những cái sai, đập xuống! Để làm gì? Để giúp cho người sau chứ làm gì! Mục đích là như vậy, chứ đâu phải là… Cái người tu rồi - người ta cần gì người ta phải đập như vậy đâu! Là vì người ta thương những cái người sau cũng khổ sở như mình, tu 60 năm. Cho nên cái hiểu mấy con đã nghĩ sai. Cho nên người ta cứ nói là: "Thầy phải tu 9 năm ở trong Thiền Đông Độ nó mới có sự tỉnh thức, mới có thể tu vậy được!" Không phải đâu!
Thầy hướng dẫn mấy con. Hồi nào giờ mấy con cứ đi vào trong Chánh Niệm Tỉnh Thức đi, mấy con đạt được những gì giờ này? Bây giờ mà ngồi đây mà quán, mà quán như vậy mấy con thấy nó có quán được không? Các con hiểu chỗ đó không? Có quán được không hay là Thầy phải gợi ý để cho mấy con quán?
Hồi nào bây giờ mấy con tu - Thiện Thảo đó, thử cái bài viết của Thiện Thảo coi viết đúng không? Mà nó tỉnh thức như vậy đó, cả đêm nó không ngủ. Thầy Chân Thành cả đêm không ngủ đó, tỉnh thức hoàn toàn đó. Như vậy mà viết ra bài như vậy thì các con nghĩ sao? Có triển khai đúng không hay hoặc là bây giờ phải Thầy hướng dẫn?
Tu sinh 7: Dạ! Mô Phật! Bạch Thầy, con xin hỏi: giờ cái dòng tư tưởng của con muốn đọc kinh của Thầy. Con xin… ngày nào con cũng đọc hoài, có nên, được không?
(37:44) Trưởng lão: À được chứ sao, không có gì hết! Bởi vì nó triển khai được cái sự hiểu biết của con, dựa vào đó để rồi mình triển khai cái tri kiến của mình, qua cái sự triển khai của mình nữa thì nó lợi ích. Cũng như Thấy thấy mấy con làm cái bài đường đi nhân quả, Thầy thấy trong những cái bài đầu mấy con cũng nói nó na ná. Nhưng mà sự thật - đức Phật đã cấu kết cái đường đi nhân quả là hành thập thiện rồi.
Cho nên Thầy nhắc thập thiện thì mấy con biết được cái đường đi của nhân quả mà, phải không? Nếu mà con đọc sách Thầy thì con mới biết được để mà dựa vào đó mà con triển khai cái tri kiến con cho đúng chứ không khéo con triển khai trật. Đó, con hiểu không? Cho nên đạo Phật rất tốt chứ không có gì… Chứ còn…
Tu sinh 7: Con muốn đọc nhưng mà cuốn nhiêu đọc đi đọc lại, con muốn học thuộc cái cuốn đó luôn á, kiểu như là…
Trưởng lão: Không cần phải thuộc lòng mà cần phải hiểu được cái ý của Thầy muốn nói gì mới là quan trọng! Chứ học thuộc lòng thì thôi, cũng như là con vẹt mà nó học nói - thì không hay. Chỉ cần hiểu được cái ý của Thầy muốn nói cái chỗ đó thôi. Đó là để cho mình dựa vào đó, khi mà triển khai cái tri kiến trong cái phần đó cho nó đừng sai. Đó là đúng!
Tu sinh 6: Con xin hỏi thêm, bây giờ có 2 người bắt đầu đang tu tập, chưa có biết gì hết trơn: 1 người đi vô cái Chánh Niệm Tĩnh Giác, 1 người đi vô cái Tri Kiến. Thì 2 người này trong vòng 7 năm đó, thì 2 người này - người nào sẽ thành công trước?
Trưởng lão: Người mà tu Định Vô Lậu là người đó tu đạt trước. Còn cái người mà Chánh Niệm Tĩnh Giác là cái người đó sẽ rớt vào định tưởng - người đó không thành công. Bởi vì giới hàng đầu - mà Định Vô Lậu (tri kiến giải thoát) là cái giới luật nghiêm chỉnh, cho nên người này sẽ thành công.
Giới sanh Định chứ không phải tu định mà sanh ra - con hiểu cái điều đó rất quan trọng! Đức Phật đã nói trong bài kinh Sonadanda rất rõ ràng: "Tri kiến ở đâu là giới luật ở đó - giới luật ở đâu là tri kiến ở đó". Đầu tiên chúng ta phải vào cái ngõ đó chứ không thể đi cái ngõ khác được. Cho nên triển khai cái tri kiến là định đó mấy con.
Và cái lớp học đầu tiên mà Thầy dạy Bát Chánh Đạo là Tri Kiến đầu tiên, Thầy không dạy thiền định. Nhưng mà vì mấy con đã tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức thì bắt buộc mấy con phải trở về căn bản nhất và không để 1 người nào lọt trong tưởng hết. Đó là cách thức của Thầy hướng dẫn để đưa mấy con đi vào cái vấn đề giải thoát hoàn toàn.
Tu sinh 6: Dạ thưa Thầy! Vậy là bây giờ bắt đầu tất cả phải đi lại 1 phút?
(40:27) Trưởng lão: Nó vậy đó con, tức là phải đi lại bắt đầu đó! Nhưng mà nâng cái trình độ của các con nhiếp tâm được 2 phút, 3 phút, 5 phút, 10 phút, 20 phút đều là Thầy giữ cái đó không để cho mấy con mất thì giờ Chánh Niệm Tỉnh Thức. Để nâng cái chỗ tỉnh thức mấy con lên cái mức độ nào để cho mấy con an trú, nhiếp tâm cho được để đẩy lui được bệnh. Chứ thân mấy con ngồi đây tu, mấy con quán, 1 thời gian sau nó có bệnh đau mấy con lấy gì mấy con đỡ? Buộc lòng mấy con phải nhiếp tâm, an trú để đẩy lui bệnh để đem lại…
Bệnh là 1 điều khó, mấy con có nghe bữa đó Thầy nói không? Bệnh là 1 điều khó tu trong 5 điều khó tu. Mà nếu thân có bệnh là khó tu vì vậy mà chúng ta có phương pháp để chúng ta đẩy lui bệnh để chúng ta giữ thân. Đó thì mấy con biết Thầy dạy căn bản lắm mấy con, đừng sợ! Thầy dạy mà, mấy con không có sợ!
Tu sinh 1: Căn bản từ đầu đó. Phải có Chánh Kiến cho hiểu biết…
Trưởng lão: Từ đầu đó mấy con. Thầy cho Chánh Kiến, Thầy đi vào lớp Chánh Kiến chứ Thầy đâu cho Chánh Định được!
Thầy Chân Thành: Thưa Thầy…
Trưởng lão: Rồi, con hỏi đi!
Thầy Chân Thành: Thưa Thầy con xin được… Nãy giờ các huynh đệ đã nói nhiều về tu để mà nhiếp tâm, an trú tâm. Thế bây giờ con xin hỏi: người muốn nhiếp tâm được lâu và dài thì trong Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đó thì chúng ta cần tu 1 trong các loại định như Thầy đã dạy, thì cái nào là chủ yếu? Cái nào là thứ yếu?
Trưởng lão: Các con nghe đức Phật dạy chúng ta tu định gọi là Định Tư Cụ. Đức Phật nói: "Ngăn ác, Diệt ác - Sanh thiện, Tăng trưởng thiện" chứ có dạy chúng ta Chánh Niệm Tĩnh Giác, ngồi nhiếp tâm trong hơi thở đâu! Có không mấy con, nghe cái bài đầu tiên mà đức Phật dạy mình Tứ Chánh Cần đó: "Ngăn ác, Diệt ác - Sanh thiện, Tăng trưởng thiện". Đó là các con thấy rõ ràng phải không?
Thì như vậy rõ ràng hiện giờ chúng ta dùng cái gì ngăn ác nè? Có phải tri kiến chúng ta không?
Mà dùng cái gì mà để ly dục, ly ác pháp nè? Có phải là tri kiến chúng ta không?
Đó, mấy con thấy rõ ràng không? Cho nên vì vậy mà cái lớp Chánh Kiến - đức Phật khi mà tu theo ngoại đạo, tu theo Bà La Môn, thấy Bà La Môn dạy sai do ức chế tâm mình cho đến gần chết. Các con nghe cái chỗ mà cái bài mà Đại Sư Tử Hống không? Đức Phật mà dùng cái nhiếp tâm hơi thở như ai mà lấy cái sợi dây nịt mà siết cái đầu mình nó đau, nó nhức vậy. Đức Phật là người gan lắm mấy con! Chịu đựng được những cái cơn đau.
Còn mấy con hơi hơi nhức đầu là mấy con đã nói Thầy rồi - Thầy bảo xả ngay liền, có đúng không con? Mà đức Phật - như ai lấy cái dây nịt mà siết cái đầu đức Phật nhức như vậy. Mấy con thấy ghê gớm không? Đức Phật chịu đựng để mà… đức Phật gan nhưng mà điều kiện nếu mà thần kinh đức Phật yếu yếu là ông cũng điên luôn đó, Thầy nói thiệt! Nhiếp tâm cỡ mà ông Phật là nó điên đó!
Mà cái ăn uống khổ hạnh đến mức độ ăn ít quá ít - cái cơ thể kiệt quệ, đứng dậy không nổi, nằm liệt mấy con thấy không? Đức Phật tu đến cái mức độ đó. Trên đời nay, Thầy cũng có cái sự khổ hạnh nhưng mà sánh với Phật thì bằng 1 phần 10 đức Phật - đức Phật còn khổ hạnh hơn!
(43:30) Mà cuối cùng đưa ra cái đường mà tu tập cho chúng ta thì chúng ta thấy 8 cái lớp học thì Chánh Kiến đầu tiên. Thật sự không có Chánh Định, không có nhiếp tâm, không ức chế tâm chút nào hết. Triển khai cái sự hiểu biết Chánh Kiến, Chánh Tư Duy cho đến Chánh Niệm hoàn toàn để mà đi đến Chánh Niệm được, Chánh Niệm Tứ Niệm Xứ. Thật là tuyệt vời! Thầy nói đúng là không có 1 phút nào mà nhiếp tâm chúng ta mà chỉ triển khai cái tri kiến.
Bởi vì Thầy nói đây là cái chương trình giáo dục đàng hoàng chứ đâu phải… Còn cái Chánh Định đâu có còn khó khăn; Tứ Thần Túc chúng ta làm được, khi mà Tứ Niệm Xứ nó viên mãn rồi thì nó có Tứ Thần Túc chứ gì mấy con. Mà có Tứ Thần Túc thì mới dùng Định Thần Túc nhập định chứ đâu phải là vô nhập định… Con đường đi của đạo Phật nó vạch cho chúng ta thấy rõ con đường đi rồi, cho nên từ đó mà Thầy triển khai thành 1 cái chương trình giáo dục đào tạo.
Và hôm nay là cái lớp đầu tiên để chúng ta đào tạo những bậc A La Hán này. Đã nói là bậc A La Hán - vô lậu hoàn toàn đó. Nếu mà chúng ta học tập kỹ lưỡng, hẳn hòi thì cái lớp này nó sẽ có những bậc A La Hán ra đời. Thật sự cho được chứ không còn có gì khác, mà miễn là chúng ta phải học chứ không phải là tu cầu may. Ở đâu cũng mở lớp tu thiền định, rút cuộc là thiền định gì chẳng thấy hết - làm chủ cũng chẳng thấy, đau bệnh thì đi nằm nhà thương; rồi ăn uống, này kia ôi thôi đủ thứ hết, không có còn cái thứ gì hết. Phạm giới, phá giới, khéo lý luận che đậy!
Sự thật chúng ta dối trá chính bản thân của mình! Cho nên ở đây cái lớp này là cái lớp Tri Kiến, mà tri kiến các con hiểu là giới luật - ăn uống không phi thời, nhất định cái tri kiến này phải hiểu! Phải không các con? Đâu phải nhập định để cho mình đừng ăn uống đâu! Mà hiểu nó - nhất định giờ này không phải giờ ăn, mà giờ này không phải là giờ ngủ thì không được ngủ, không được phi thời!
Bởi vì cái tri kiến này nó hiểu mà, rồi triển khai cái tri kiến để mà cái tri kiến nó làm chủ và cái ý thức lực của chúng ta nó có cái lực của nó để mà chúng ta tác ý. Các con thấy nó rõ ràng mà, có phương pháp đàng hoàng chứ! Rồi bây giờ hết giờ rồi, phải không?
Tu sinh 1: Hết giờ, dạ con xin phép, bạch Thầy nghỉ! Thưa Thầy, Thầy triển khai đúng mức đó - đúng bài bản như Phật rồi đâu còn như trước nữa! Ngày xưa là dạy lơ phơ, lơ phơ để tu (không nghe rõ) bây giờ Thầy triển khai đúng lúc.
Trưởng lão: Tai nghe nè! Mấy con đứng lên!
HẾT BĂNG