00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

CK 037A (NAM) - ÁP DỤNG TRI KIẾN NHÂN QUẢ XẢ TÂM - QUY ƯỚC LỚP CHÁNH-KIẾN

CK 037A (NAM) - ÁP DỤNG TRI KIẾN NHÂN QUẢ XẢ TÂM - QUY ƯỚC LỚP CHÁNH KIẾN

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Thời gian: 20/12/2005

Thời lượng: [58:24]

1. THẦY DẠY CÁCH TRIỂN KHAI TRI KIẾN

(00:00) Trưởng lão: Hôm nay, chúng ta tiếp tục trong những giờ học tập. Trong cái Định Vô Lậu, sau thời gian Thầy đọc lại các bài của quý thầy với quý cư sĩ viết đều nói về nhân quả, thì Thầy thấy đều nói được tốt hết, nhưng mà cách thức để mà đi sâu vào cái nhân quả để mà thấm sâu như thật, thì đương nhiên là người diễn tả cách này, người thì diễn tả cách khác nhưng không ngoài cái nhân quả con người. Nhưng hôm nay Thầy muốn nói để nhắc nhở cho mình biết để mình làm cho đúng cách và đồng thời cũng là mình nói lên cái đạo đức của chính mình để cho mình áp dụng vào cái bài học này.

Cái quan trọng nhất cái người viết hay không phải hay, mà cái người viết dở trong lớp này mà biết áp dụng vào cái đời sống của chúng ta là cái người đó hay nhất. Bởi vì mục đích của Định Vô Lậu là làm cho tâm mình hết đau khổ. Do cái sự học hiểu này, nhờ cái sự hiểu biết này nó giúp cho chúng ta không còn bị những cái ác pháp, bị những cái chướng ngại pháp làm cho tác động thân tâm. Do cái mục đích học là để áp dụng vào đời sống chứ không phải học để hay. Nhiều khi chúng ta viết tranh nhau mà để viết cho nó hay thì không phải đâu. Viết hay là như thế này, vừa rồi Thầy có đọc lại những cái bài có nhiều người viết hay lắm, nhưng áp dụng nó không được, trái lại có người viết dở lắm mà lại áp dụng được. Cái quan trọng là chỗ biết áp dụng vào cái sự hiểu biết của mình cái đó là cái hay nhất.

(01:45) Như vừa rồi Thầy cho viết cái bài đạo đức nhân bản. Bài đạo đức nhân bản thì quý thầy đừng hiểu nó là một cái đề mục nhỏ cho một bài viết, cho nên Thầy thấy hiểu một cách rất là cạn. Sau khi chúng ta đã học nhân quả của con người, chúng ta biết đường đi nhân quả của con người rồi, rồi chúng ta lại biết từng phần của nhân quả do thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta. Rõ ràng là chúng ta viết đúng, không sai cho nên kết luận lại cái bài nhân quả để chúng ta viết cái đạo đức nhân quả thì quý thầy thấy cái đạo đức nhân bản - nhân quả là một cái đề tài của một cái tập sách, của một cái bộ sách chứ không phải một cái đề tài để viết một cái bài luận văn. Các thầy hiểu điều đó.

(02:37) Bởi vì chúng ta thấy rõ ràng đường đi của nhân quả là thân hành, khẩu hành, ý hành. Mà thân hành nó có bao nhiêu điều thiện, bao nhiêu điều ác; mà khẩu hành có bao nhiêu; ý hành có bao nhiêu. Như vậy cái đường đi nó quá nhiều, cho nên nó là cái đạo đức của con người. Thế mà chúng ta không hiểu cho nên khi mà Thầy đưa và bảo rằng quý thầy hãy viết về đạo đức nhân bản thì quý thầy lại suy nghĩ cái đường đi của con người là thân hành, khẩu hành, ý hành. Tất cả những ác pháp, thiện pháp đều nằm trên cái lộ trình này. Mà muốn đạt được cái lộ trình này, muốn nói lên cái đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người, thì nó là đạo đức nhân bản, thì cái đề tài này nó là cái đề tài của một cái bộ sách đạo đức. Còn bây giờ, quý thầy chỉ viết nó là thành một cuốn sách đạo đức.

(03:34) Cho nên khi viết cuốn sách đạo đức, thì nó phải có lời giới thiệu. Vào đầu đề thì nó phải có lời giới thiệu chứ sao, giới thiệu cái đạo đức đó chứ, có phải không? Mình giới thiệu rồi bắt đầu đó là cái lời nói đầu của cái tập sách, rồi cái lời giới thiệu của cái đạo đức đó, rồi kế đó mình mới vô đề mình mới viết cái đạo đức thứ nhất của cái ý của chúng ta. Thì trong cái ý nó khởi ra một cái niệm nào, hoặc là (ý nó có 3 mà) nó khởi tham muốn cái gì, thì nó đưa đến cái thân hành của chúng ta, rồi nó đưa đến cái khẩu hành của chúng ta.

(04:13) Do đó nó thành một cái đề tài của một cái bài đó. Ví dụ như bây giờ cái đề tài mình viết, mình viết cái đề tài đầu tiên thì mình thấy cái giết hại chúng sanh là cái ác, mà cái không giết hại chúng sanh là cái thiện. Qua nhân quả thì mình biết cái này rồi. Do đó cái thiện, cái ác này thì mình biết rằng cái hành động mà giết hại chúng sanh là ác, và cái hành động phóng sanh làm cho chúng sanh không đau khổ là hành động thiện. Vậy thì chúng ta nêu lên cái hành động thiện đó trở thành cái đạo đức hiếu sinh, cái lòng thương yêu. Mà cái lòng thương yêu đó, không giết hại chúng sanh, thương yêu chúng sanh thì nó trở thành một cái bài viết của chúng ta nói về đạo đức. Thì nội cái đó không nó thành một cái bài, chứ không phải chúng ta đem một cái tựa đề đạo đức nhân bản rồi chúng ta thành một cái bài luận của một cái bài đạo đức thì không phải.

(05:13) Rồi bắt đầu kế cái bài thứ hai thì bắt đầu chúng ta thấy về thân hành thì có tham lam trộm cắp, lấy của không cho chứ gì? Nó trở thành một cái tít để chúng ta viết một cái bài đó nữa, cái đề đó nữa. Thì cái bài thứ nhất chúng ta nói lòng hiếu sinh tức là cái thiện, bài thứ hai chúng ta nói sự buông xả, không dính mắc, đó là cái đức của chúng ta mà, cái đức hạnh của chúng ta. Bởi vì nói đến đức thì chúng ta phải nói đức hạnh. Thì trong cái đức đó chúng ta thấy cái không đức, không đức hạnh thì cái mà thiếu đức hạnh đó là tham lam trộm cắp, lấy của không cho.

(05:48) Rồi bắt đầu bây giờ tới vấn đề tà dâm, thì chúng ta thấy đức Phật dạy chúng ta thấy rõ ràng, con đường đi rất rõ ràng. Dâm thì nó có nhiều cách, một người thủ dâm vẫn tà dâm mà, chứ đâu phải là lấy vợ người khác hoặc cướp chồng người khác là tà dâm không đâu. Nó có nhiều cách để chúng ta nhắc nhở cho mình đừng nên làm cái điều chuyện đó, hành động đó, bởi vì không phải. Đó là thủ dâm, đó là tà dâm chứ không phải chánh dâm.

(06:18) Cho nên ở đây mỗi khi mà viết như vậy đó mà nó trở thành một cái bài. Thật sự ra chúng ta không thể viết trong một tập, hai tập để con làm một cái bài mà trở thành cái đạo đức để nhắc nhở. Thứ nhất là để nhắc nhở cho mình, thứ hai là để làm một cái bài mẫu cho người khác. Sau này các con khi mà tu xong rồi con sẽ đứng lớp con sẽ dạy người ta bằng cái gì? Có phải bằng con đường này không? Cho nên ở trong cái lớp chúng ta đây là không phải cái trường lớp (mà) dạy về học văn mà dạy về làm chủ sự sống chết của chúng ta. Cho nên buộc lòng đi vào cái tri kiến của chúng ta để hiểu biết như thật, biết như thật, thấy như thật, đó là đạo đức như thật của con người. Cho nên chúng ta áp dụng vào đời sống để xả tất cả những ác pháp mà không làm cho tâm chúng ta phiền não đau khổ, không ác pháp nào tác động vào tâm chúng ta được. Mục đích của chúng ta là tu học.

Từ lâu các con cũng nghe nói rằng cái Định Vô Lậu, rồi người ta cũng quán tới quán lui, suy tư người ta nói thiền quán. Chúng ta nghe những danh từ, nhưng chính hôm nay mới đưa ra cái bài học để thiền quán.

Hôm nay quý thầy, quý cư sĩ học được cái bài thiền quán. Thiền quán như thế nào đúng và như thế nào sai. Từ xưa đến giờ chúng ta nghe thiền quán chứ sự thật chúng ta nghe thiền Minh Sát Tuệ nói dùng cái tuệ minh sát để minh sát cái này, cũng là thiền quán thôi chứ có gì. Nhưng người ta đã lầm, người ta đã đưa người ta đi vào cái tưởng rồi người ta quán ra thành ra người ta quán. Còn ở đây chúng ta dùng cái tri kiến, với một người chưa biết gì hết người ta vào cái lớp học Chánh Tri Kiến là chúng ta đã học quán rồi.

(08:05) Cho nên vì vậy chúng ta học để chúng ta hiểu biết như thật, để chúng ta áp dụng vào đời sống mình để làm cho tâm mình không bị chướng ngại. Chứ không phải bây giờ chúng ta ngồi thiền nhập định mà nhập được cái thứ gì. Thầy nói giới không được thì không có thể nói thiền định được, mà giới cho nghiêm chỉnh tức là phải có cái tri kiến của chúng ta, mà tri kiến của chúng ta sống đúng giới tức là đức hạnh, là đạo đức nhân bản chứ cái gì, có cái gì khác hơn.

Cho nên đức Phật nói: “Giới luật đâu là tri kiến ở đó, mà tri kiến đâu là giới luật ở đó”. Giới luật là đạo đức nhân bản - nhân quả chứ không có gì khác. Nhưng mà muốn biết cái đạo đức đó đúng hay sai là chúng ta phải có sự tư duy hiểu biết, nhưng dựa vào đâu mà chúng ta biết? Dựa vào những lời Phật dạy, như Thập Thiện thì chúng ta đã biết rồi. Các con thấy chúng ta có sai không? Không có sai. Chúng ta không bao giờ mà đi sai con đường của đạo Phật. Đạo Phật đã vạch cho chúng ta rõ: thiện ở đâu, ác ở đâu, rõ ràng có con đường hẳn hòi mà.

(08:58) Từ Ngũ Giới rồi Thập Giới cho đến Thập Thiện, rồi 250 giới, 348 giới. Và còn biết bao nhiêu giới trong kinh Phạm Võng và kinh Sa Môn Hạnh, Sa Môn Quả. Tất cả những cái bài kinh này đều nằm ở trong cái đức hạnh của đức hạnh nhân bản - nhân quả. Thậm chí như đức Phật dạy như thế này chúng ta thấy, một cái tư tưởng của người khác nói rằng thế giới này là thường còn, đó cũng là một cái giới đó nhưng mà Thầy chưa có dạy cái này ra đâu. Các con đọc trong kinh Phạm Võng các con thấy những cái lý luận của ngoại đạo mà đức Phật đã cho đó là một cái không đúng, tức là cái phạm giới, không thanh tịnh. Khi mình làm một cái điều gì sai, mình theo một cái tôn giáo sai đều là mình bị phạm giới, mình đã làm cho mình khổ.

Cũng như bây giờ mình không mê tín, nhưng mình theo cái tôn giáo đó dạy mình mê tín, thì đó là tự mình đã làm khổ mình chứ sao, các con thấy không? Nó phải hao tài tốn của, tốn công tốn sức của mình, nhưng được những gì? Cho nên những cái tư tưởng đó, những cái tư tưởng triết học, những cái tư tưởng đó nó sẽ đưa dắt chúng ta đi tới đâu, hay hoặc là chúng ta đến chỗ khổ, đều là nằm trong giới của đức Phật. Trừ ra có cái đạo đức không làm khổ mình, khổ người phải dùng cái tri kiến sáng suốt để nhận định đúng đắn là giới của Phật, là phạm hạnh của một nhà tu hành.

(10:19) Chúng ta chưa đọc hết toàn bộ giới, chỉ còn bốn tập nữa. Thì mấy con biết bốn tập nữa để nói hết tất cả những cái gì sai làm được cho đời sống chúng ta hôm nay mà giới luật mà đức Phật đã kê đầy đủ. Sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo đều nằm trong bộ giới của Phật hết. Các con thấy cái này mình đâu có ngờ đức Phật đã viết ra, đã nói cách đây hai ngàn mấy trăm năm rồi. Nhưng người ta đâu có ngờ đó là cái đức hạnh, cái giới luật đâu. Mình lầm lạc ở trong một cái hệ tư tưởng nào đó đem lại cái đời sống của mình rất khổ, mà người khác khổ.

Các con thấy những cái tư tưởng của những nhà triết học đưa ra tưởng là đem lại hạnh phúc cho con người, không ngờ chúng ta chấp nhận là chúng ta chết ở trong đó liền. Đó là cái mà đức Phật đã vạch ra rất rõ. Sau này những cái tập Giới mà tiếp tục thì chúng ta mới thấy được những cái tư tưởng triết học con người chúng ta đã vẽ ra. Những cái tư tưởng tôn giáo mà mọi con người mình vạch ra, dựng lên, để rồi đưa đến con người đến đau khổ. Cái này đức Phật đã xác định rất rõ rồi nhưng không ai ngờ. Bây giờ Thầy sẽ vạch ra mới thấy điều đó là sự thật. Giới luật của Phật xác định rất cụ thể.

(11:36) Cho nên hôm nay chúng ta đi vào đạo là đi vào cái sự hiểu biết, đi vào cái tri kiến hiểu biết chứ không không có gì khác hơn hết. Hiểu biết để không làm những điều ác. Cho nên những cái bài học hôm nay chúng ta phải (có sự) làm như thế nào để chúng ta triển khai cái tri kiến của chúng ta hiểu đúng, vạch đúng một cái dàn bài để chúng ta đi vào, đi vào nó không sai. Chứ nếu không có dàn bài thì chúng ta nói lung tung, quán lung tung, nó không có đúng. Rồi cho cái chỗ nào chúng ta cũng hiểu đúng nhưng mà sự thật ra chúng ta chắp vá, bên đây hiểu chút, bên kia hiểu chút, chắp qua chắp lại, cuối cùng nhiều khi chúng ta ngồi chúng ta viết không ra. Chúng ta cứ nghĩ nó vô thường, các pháp vô thường hay thân vô thường. Chúng ta cứ nghĩ vậy, nhưng cầm cây bút mà viết ra thì chúng ta không có cái dàn bài để mà tiếp tục viết.

Cũng như vừa rồi Thầy cho cái đạo đức nhân bản, thật sự Thầy cầm cái bài của mấy con mà Thầy đọc, Thầy nói: “Trời ơi, hiểu như thế này thì hiểu như thế nào đây? Viết như thế này là viết như thế nào đây? ” Các con đã cầm cuốn sách của Thầy các con đọc chưa? Bây giờ cầm cuốn 10 Giới Đức Thánh Sa di, tức là Văn Hóa Phật giáo Truyền Thống tập 1. Các con thấy, vô đầu Thầy giới thiệu, phải không? Lời nói đầu rồi có giới đó thì có những cái bài giới thiệu những cái giới luật, 10 giới Sa di, rồi tới cái bài làm của nó. Các con thấy không, nhiều khi người ta còn phải có cái lời bạt. Thì các con thấy tất cả những trình bày trên một cái tập sách nó phải như thế nào. Cuối cùng Thầy cho mấy con học từ cái bài nói về nhân quả, từ nhân quả thảo mộc để chuyển sang nhân quả con người, để nó có cái bằng chứng cụ thể mà chúng ta thấy rằng là một sự thật không thể nào sai sự thật được.

(13:31) Cũng như bây giờ ai nói rằng một con người mà sanh ra nhiều người thì ai tin? Nhưng mình nhìn qua nhân quả thảo mộc thì căn cứ vào chỗ đó ai dám bảo rằng chúng ta nói sai, có ai dám bảo không? Chứ bây giờ chúng ta làm sao biết một con người được sanh ra nhiều người đâu, người ta đâu hiểu được. Nhưng chúng ta có chỗ căn cứ chúng ta nói, đó là cái chúng ta xác định cụ thể rõ ràng như thật. Thì những cái bài đó thì chúng ta làm theo cái dàn bài của nó rõ ràng là phải nói đặc tướng, đặc tính của nó chứ, có phải không? Rồi duyên hợp, duyên tan, rồi chuyển đổi nhân quả, rồi kết luận nó chứ. Đó là cái đường đi, cái dàn bài của nó để chúng ta viết, cho nên làm sao chúng ta lệch được, nó có cái điều kiện để chúng ta quán. Bây giờ chúng ta kết luận để trở thành một cái bài học đạo đức. Hay nói là một cuốn sách đạo đức thì chúng ta phải có sự tư duy suy nghĩ, chứ không thể nói bây giờ đạo đức nhân bản mấy con viết như cái bài luận vậy thì thôi rồi. Cũng như là một bản liệt kê ra những điều thiện, điều ác của mấy con như thế này thì thôi Thầy hết nói rồi. Làm sao hiểu đó là cái đạo đức được, phải không?

(14:47) Cho nên vì vậy chúng ta phải thấy cái sự trình bày. Từ cái bài này nó ngắn gọn người ta đọc một bài người ta thấy nó quá tuyệt vời. Người ta dừng lại chứ người ta đọc liên tục ha? Các con thấy viết một xấp như thế này Thầy đọc Thầy ngán lắm chứ mà không thấy cái chỗ dứt. Cái này nó cứ liên tục, cái kia liên tục rồi liên tục cái nọ. Các con viết bài kiểu này thì chắc chắn là mấy con không làm sao mấy con áp dụng vào cái tâm của mấy con được hết. Bởi vì sự kiện nó xảy ra không phải xảy ra một lần một loạt như vậy đâu. Cái sự kiện nó xảy ra, người ta làm cái chuyện gì nó xảy ra nó tác động vào mình thì nó có một cái bài của nó ở trong đó, nói đạo đức hay không đạo đức ở đó, để chúng ta biết mà chúng ta áp dụng vào ngay để chúng ta hóa giải, phá vỡ nó đi, làm cho tâm chúng ta bình an trở lại. Đó là cách thức mà chúng ta thực hiện quán vô lậu chớ. Định Vô Lậu nó phải có cái trí tuệ chúng ta như vậy chứ. Đâu có cái lý nào mà mênh mông, đụng đâu vá đó, đụng đâu chắp vô đó, thì các con có thấy hết lậu hoặc không? Sự thật quán như vậy không hết mấy con.

Cho nên cái lớp này, các con nhớ rằng đây là cái lớp Chánh Kiến chứ chưa phải là Chánh Tư Duy, nhưng trong Chánh Kiến có Chánh Tư Duy chứ, trong Chánh Kiến có Chánh Ngữ. Vừa rồi mấy con làm bài Chánh Ngữ, Thầy nói thực sự ra những cái lời nói của các con Chánh Ngữ, các con hiểu rồi. Quá hay, quá tuyệt, ôn tồn nhã nhặn, lời nói ngọt ngào. Cha nói với con, vợ nói với chồng, con nói với cha, bạn bè bầu bạn tất cả mọi cái mấy con viết, viết cuộc đời của mấy con, Thầy nói thực sự viết cuộc đời. Những cái ái ngữ đó có khi mấy con dùng những cái ngòi bút viết về ái ngữ chân thật quá thật thà, mà Thầy thấy rất là rung động, đem lại một cái hạnh phúc rất là an ổn.

(16:34) Cho nên cuộc đời chúng ta luôn luôn dùng ái ngữ mà Chánh Ngữ chứ không phải dùng ái ngữ tà ngữ. Bởi vì ái ngữ có những lời êm ái, có những lời nịnh hót. Nó êm ái đó nhưng mà sự thật nó là tà, nó đem đến sự đau khổ kế sau đó. Cho nên ở đây chúng ta biết sử dụng được ái ngữ.

Vì vậy mà mấy con biết còn có một lớp học gọi là Chánh Ngữ trong Bát Chánh Đạo. Các con thấy tại sao mà phải có riêng một cái lớp học nói là Chánh Ngữ? Nó rèn luyện, nó huấn luyện chúng ta có ngôn ngữ hoàn toàn ở Chánh Ngữ chứ không được Tà ngữ trong đó. Nó phải có lớp riêng nó chứ. Giờ chúng ta đang học lớp Chánh Kiến mà chúng ta đã có học được ái ngữ. Chúng ta đã biết sơ, nhưng chúng ta chưa phải đi sâu vào cái lớp Chánh Ngữ đâu. Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, có phải không? Nhưng mà bây giờ chúng ta đang học lớp Chánh Kiến thì chúng ta có đại khái tất cả những cái như Chánh Tư Duy có, Chánh Ngữ có, rồi Chánh Nghiệp có, rồi Chánh Mạng có. Tất cả những cái này chúng ta học nhưng mà chính Chánh Kiến này là tiên quyết.

(17:37) Chúng ta có cái thấy như thật, đúng như thật cho nên những cái bài mà chúng ta viết như thật. Chúng ta kiếm cái chuyện ở đâu chúng ta đem vô, chúng ta nêu ra là chúng ta sai. Chúng ta hãy lấy những cái đời sống của chúng ta từ nhỏ đến lớn chúng ta xảy ra những chuyện gì thì chúng ta nói. Đây là như thật. Nhưng có nhiều cái chúng ta nhớ lờ mờ, coi chừng chúng ta nói láo rồi đó, rồi chúng ta thêu dệt thêm cho nó hay câu chuyện hơn. Sự thật chúng ta phải nói như thật thì nó hay hơn. Cho nên muốn làm bài, viết bài thì phải có một cái dàn bài, sườn bài cho cụ thể, rõ ràng mấy con viết.

(18:18) Thực sự ra ở đây có một số người viết rất hay. Thầy công nhận điều đó. Khi nghe Thầy nói rồi người ta dựa vào đó người ta viết rất là kỹ.

Nhưng cái tuyệt vời đó nó không bằng cái người viết đó mà áp dụng vào thì Thầy nói những người này là chứng quả A La Hán. Nói được như vậy mà áp dụng vào đời sống mình, mình nói được mình áp dụng được. Mình biết nói như vậy tại sao mình không làm được? Cho nên Thầy nhắc nhở, Thầy thường sách tấn các con, khi mà các con làm được rồi thì Thầy nhắc nhở là mình nói được là mình phải làm được. Mà làm được tức là chứng quả A La Hán chứ không có chỗ nào khác hết, bởi vì nó đã giải thoát hoàn toàn rồi.

Cho nên đạo Phật đâu có gì mà khó, nhưng khi mà hoàn toàn chúng ta đã thanh tịnh, thân tâm chúng ta không còn tham, sân, si thì chúng ta có đủ đạo lực để làm chủ sự sống chết của chúng ta, tức là chúng ta có đủ lực để chúng ta nhập các định và thực hiện Tam Minh chứ có gì đâu mà khó. Cái vấn đề đó không khó mà cái vấn đề làm cho tâm chúng ta hoàn toàn bất động, thanh tịnh, điều này điều khó, chúng ta học nhiều.

(19:24) Bằng chứng các con thấy trong Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm. Cả 7 lớp đó đều nằm trong giới luật. Như vậy là chúng ta dồn hết tất cả chương trình giáo dục của đạo Phật nó nằm 7 cái lớp chúng ta đều là triển khai cái tri kiến chúng ta hết, cái ý thức của chúng ta hết.

Bây giờ tu Tứ Niệm Xứ là Chánh Niệm chứ gì, các con ngồi thanh thản, an lạc, vô sự có phải tưởng không, hay là ý thức của mấy con, hay hoặc là tâm của mấy con ở đâu mà lôi ra nằm đây mà giữ cái tâm này, có phải ý thức không?

Các con thấy rõ ràng là chúng ta tu trong ý thức của chúng ta, tri kiến của chúng ta chứ cái gì đây. Như vậy là tri kiến của chúng ta từ tám cái lớp của Phật mà bảy lớp đã dùng tri kiến hết rồi. Trừ ra có một lớp Chánh Định là chúng ta dừng cái tri kiến của chúng ta lại thì chúng ta mới vào Định chứ. Cho nên Định nó đâu còn phải ở trong chỗ ý thức của chúng ta đâu. Nhưng nó không có khó khăn, nó không có mệt nhọc là tại vì bảy cái lớp này sau khi nó thanh tịnh rồi thì nó có Tứ Thần Túc, nó có bốn cái thần lực. Mà bốn cái thần lực đó để áp dụng vào định chứ có gì.

(20:38) Bây giờ chúng ta ngồi thiền nhập định để làm gì đây? Chúng ta có đủ sức không? hay là chúng ta tu điên nè? Hầu hết trên thế gian này, Thầy nói thật sự ra khi mà Thầy tu xong rồi, Thầy nhìn thấy thiên hạ tu thiền định là tu điên. Trước kia Thầy không nói nhưng mà tại sao bây giờ Thầy nói? Là tại vì cái lớp của đạo Phật đã mở cửa, Thầy phải nói tất cả những cái sai. Cũng như đức Phật đã nói trong kinh Nikaya “Kinh Nguyên Thủy”, đức Phật dập sạch xuống hết: “Toàn bộ là trật không có đúng”.

Còn bây giờ Thầy mở cái lớp Bát Chánh Đạo này để giúp cho chúng ta đào tạo những người tu thật tu. Thầy không nói thẳng, nói mạnh thì không được. Hoàn toàn phải nói sai là sai, mà đúng là đúng. Mà toàn bộ là đang sai, vì người ta có tu đúng chỗ này đâu. Họ có tu bảy cái lớp này đâu, họ nói chứ họ có tu không? Giới luật thì phạm hết không con cái giới nào mà không tha, không phạm. Cho nên vì vậy thì làm sao mà họ thực hiện được thiền định. Thiền định đâu phải phá giới mà thiền định được. Cho nên ở đây chúng ta thấy rõ ràng, cụ thể cách thức chúng ta tu tập. Vậy thì chúng ta cố gắng triển khai tri kiến của chúng ta.

2. THẦY SÁCH TẤN TU SINH

(21:53) Những người ngồi trước mắt Thầy, đối diện với Thầy đều là người nào cũng có tri kiến sáng suốt, dù là một người dở nhất họ cũng có đủ cái thông minh sáng suốt.

Như Pháp Châu ngồi trước mặt Thầy, viết rất ít nhưng mỗi cái câu, mỗi lời nói đều nhắm vào cái chỗ xả tâm của mình. Thầy thấy nói ít mà biết cách xả tâm, cho nên Pháp Châu ráng cố gắng! Con là dở nhất trong lớp này, khi cầm cây bút mà viết ra một cái bài thì con là người dở nhất không ai bằng con. Nhưng Thầy tin rằng con sẽ xả được tâm. Hãy cố gắng!

(22:33) Thực sự ra những cái điều mà hôm nay Thầy nói cho mấy con nghe để cho mấy con biết cách mấy con triển khai cái tri kiến của mình, biết cách đường lối triển khai.

Những bài của mấy con, viết nhiều Thầy không ngại đọc đâu mấy con, mà viết làm sao cho đúng. Viết ít hay viết như thế nào đúng, điều đó là một cái điều rất hay.

Ở đây thì cái bài của Minh Nhân, bài làm Ái ngữ nhân quả rất hay, áp dụng vào nhân quả gia đình quá tuyệt vời. Mẩu chuyện thật, chuyển hóa được nhân quả gia đình. Những cái bài con viết rồi, chuyển được gia đình của mình. Đó, qua cái đạo đức nhân bản - nhân quả đó.

Qua cái sự sống thực sự trong một chuyến đi, Thanh Quang có thuật lại có thầy Thanh Quang, con và gia đình của con, trong đó thì có Minh Điền đến, nhưng mà chuyển biến được gia đình của Minh Nhân có một số người rất là tốt.

Thầy thấy từ cái chỗ mà chúng ta học nhân quả thì chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta có sự chuyển biến thay đổi rất tốt trong gia đình của chúng ta. Thì như vậy qua cái bài này là bài viết thật của mình, câu chuyện thật của mình, áp dụng vào cái đời thật để sách tấn cho mình càng lúc mình càng phải phấn khởi hơn, mình nỗ lực mình xả tâm nhiều hơn bằng cái tri kiến giải thoát của mình. Đây là cái bài mà có thể nói rằng tạm được và tất cả các bài khác của mấy con đều là có thể nói rằng đều hay hết.

Thầy Chân Thành viết cũng rất là thật tình, nói về đời sống của mình, nói về ông thân của mình, mà khi đọc thì chắc chắn cái người nào có tình nghĩa đối với cha mẹ thì đều cũng phải rơi nước mắt trước cái cảnh ông thân của mình, trước ngày chết mà vẫn thương con, vẫn nói cái lời ái ngữ rất là ngọt ngào.

(24:39) Hôm nay thì Thầy nói như vậy để chúng ta viết, chúng ta biết để mà chúng ta làm bài cho nó đúng, tức là chúng ta biết cách thức để quán. Thầy dạy mấy con để biết cách thức quán, chứ sự thực ra mấy con nghe Định Vô Lậu quán, tư duy quán xét nhưng mà không biết cách quán là nó quán trật đi, nó quán cách không đúng; còn nó biết cách quán thì nó quán đúng.

(25:04) Một lát nữa Thầy sẽ đọc cho mấy con cái bài thân vô thường của một người viết cái bài thân vô thường. Nó theo cái dàn bài mà viết thân vô thường. Bây giờ nói thân vô thường mấy con nói thân vô thường, coi chừng mấy con nói nó không có biết cách nói, nó không có biết cách quán. Rồi mấy con quán mấy con nói vô thường thế này thế khác, nó không có đi vào cái dàn bài của nó để chúng ta quán. Khi chúng ta muốn tư duy suy nghĩ một cái điều gì đó thì chúng ta phải làm cái dàn bài, trước chúng ta nói cái gì, sau chúng ta nói cái gì, thì cái bài chúng ta nó không bị lệch, không bị lạc đề, không bị nói lan man, nó không bị đưa cái này vào đưa cái kia vào. Cho nên ở đây không phải dạy con trở thành những nhà văn, nhưng mà dạy cách thức quán.

Cái người mà người ta học văn là người ta cũng làm cái dàn bài để người ta viết văn không lạc đề, còn mình ở đây mình quán để cho mình triển khai cái sự hiểu biết của mình, nó cũng phải có cái dàn bài, cái cách thức quán, chứ không phải muốn quán như thế nào là quán. Cho nên thật sự ra Thầy nghe nói thiền quán, đụng đâu quán đó, đụng đâu quán đó, quán lam nham, cuối cùng quán không ra gì hết. Bằng chứng là Thầy nói thật sự ra mấy con viết như thế này thì Thầy nói thực sự nếu mà đứng ở trên góc độ mà viết luận văn thì mấy con viết được, nhưng mà đứng về góc độ quán để cho tri kiến mình thông suốt thì chưa xong. Cho nên phải cố gắng!

3. BẢN QUY ƯỚC CỦA LỚP TU HỌC CHÁNH KIẾN

(26:37) Hôm nay thì Thầy sẽ đọc cái quy ước của lớp tu học Chánh Kiến. Bây giờ ai đọc dùm Thầy cái quy ước này. Có ai không, có ai đọc không?

Tu sinh: Kính thưa Trưởng lão, con thấy giọng của sư Pháp Ngộ đọc được Trưởng lão.

Trưởng Lão: Vậy hả? Pháp Ngộ đọc đi.

Thầy Thanh Quang: Giáo hội Phật giáo Việt Nam - tỉnh Tây Ninh, huyện Trảng Bàng - Tu viện Chơn Như.

QUY ƯỚC LỚP TU HỌC CHÁNH KIẾN

Tu viện Chơn Như: ngày 15 tháng 12 năm 2005.

Để đảm bảo cho lớp học ngày càng nề nếp, chất lượng và đạt kết quả tu học ngày một tốt hơn.

Để giữ gìn nghiêm túc ba ĐỨC, ba HẠNH. Được phép của đức Trưởng lão, chúng con 62 tu sinh đang tu học lớp Chánh Kiến xin phát nguyện thực hiện các quy ước sau:

(28:16) I/ VỀ HỌC TẬP:

  1. Thực hiện đúng những điều Trưởng lão đã dạy và những điều đã quy định về lớp học.

  2. Vào lớp đúng giờ, mọi người phải có mặt tại lớp trước năm phút. Trong giờ học không được đi lang thang bên ngoài hoặc nói chuyện với những người khác, những người dự thính cũng không nên nói chuyện.

  3. Có thời khóa tu tập riêng cho từng người đã được đức Trưởng lão phê duyệt. Không được tu theo thời khóa của mình tự đặt, muốn tu giờ nào là tu, muốn ngủ giờ nào là ngủ.

  4. Có bài tập đầy đủ, nộp bài đúng quy định, đúng thời gian, không tự ý mang bài lên nộp riêng.

  5. Không được đến thất làm việc của Trưởng lão, vì Trưởng lão đã dành cho mỗi ngày có 2 giờ thưa hỏi: sáng 7 giờ, chiều 2 giờ.

  6. Ghi âm và đọc kinh sách phải căn cứ vào sự hướng dẫn chỉ dạy của Trưởng lão. Tùy theo từng thời kỳ, từng lớp, từng bài pháp tu học. Không được tự ý đọc kinh sách này, đọc kinh sách khác, thời gian chỉ dành cho sự tu tập đúng pháp, đúng căn cơ. Nam nữ tu sinh không từ lớp này sang lớp khác mượn băng sách hay ghi âm nói chuyện làm mất sự thanh tịnh, động chúng tu hành, nam nữ lộn xộn, tụm ba, tụm năm người đứng, người ngồi nói chuyện, làm mất vẻ trang nghiêm của lớp học Bát Chánh Đạo. Vì đây là lớp dạy đạo đức nhân bản - nhân quả. Xin các tu sinh lưu ý vấn đề trật tự lớp học phải được thì hành nghiêm chỉnh. Nếu tu sinh nào thấy mình không theo nổi lớp học này thì nên xin vào lớp dự thính.

  7. Không tự ý tập thêm các pháp ngoài sự chỉ dạy của Trưởng lão. Không tự ý tập thêm giờ, dẫn tới căng thẳng ức chế thân tâm (Thiện xảo sáng tạo trong học tập, nhưng không tùy tiện làm sai lệch pháp). Không được hướng dẫn pháp mình đang tu có kết quả cho bạn, vì chỉ phù hợp với trình độ và đặc tướng của riêng mình mà kêu gọi khích lệ mọi người tu theo như mình nhưng không biết rõ đặc tướng và trình độ của người khác, nên dẫn tới tai hại khiến cho người khác rối loạn thần kinh, điên khùng, bệnh tật ngây dại v. v..

  8. Trên giảng đường, khi nào Trưởng lão cho phép thưa hỏi mọi tu sinh được trình bày điều mình cần thưa hỏi. Khi thưa hỏi phải cân nhắc kỹ nội dung thưa trình, không để lãng phí thời gian của Trưởng lão và bạn đồng tu trong lớp đang chờ thưa hỏi. Ngoài giờ, ngoài số người quy định, không được tự ý gặp thưa hỏi riêng (trừ những trường hợp đặc cách cần gặp Trưởng lão đều phải qua trình Trưởng lão và chờ ý kiến Trưởng lão báo lại mới được gặp. )

(31:35) II/ Về đời sống sinh hoạt và vật dụng tư thực.

A - Giữ gìn ba hạnh: Ăn, Ngủ, độc cư.

  1. Tất cả tu sinh đều phải đi khất thực và dùng một lần Ngọ Trai đúng giờ quy định (đều phải ăn khay, 10 giờ đi khất thực, 11 giờ thọ trai). Không tự ý đem thực phẩm từ bên ngoài vào hoặc nhận thực phẩm từ người khác để dành dùm thêm phi thời. Để sống bình đẳng với những bạn đồng tu, trong khi có những người thân hay Phật tử cúng dường riêng thực phẩm hay tứ sự thì nên trao lại cho người quản lý về đời sống “cô Út” để được phân chia đồng đều.

  2. Tất cả tu sinh đều phải tu tập ngày, đêm 4 thời (Mỗi thời dài, ngắn tùy theo thời khóa của từng người đã trình lên Thầy phê duyệt). Không ngủ phi thời, không gây ồn náo làm chướng ngại người khác. Phải tự sắp xếp nơi kinh hành tu tập cho thích nghi trong phạm vi trụ xứ của mình. Không đi qua trụ xứ hoặc đi trên lộ hành thiền của người khác, làm động mình động người, để phòng hộ 6 căn, nhiếp phục và an trú được tâm sớm có kết quả.

  3. Tuyệt đối không được tiếp duyên trò chuyện với bất cứ ai dù người trong hay người ngoài Tu viện, ngoại trừ Trưởng lão hoặc trường hợp có sự đồng ý của Trưởng lão mới được tiếp chuyện. Không được tự ý đến thất hoặc đến gặp bất cứ ai về bất cứ việc gì, hạnh độc cư phải tuyệt đối giữ gìn.

  4. Không được tự ý đi lại từ khu vực này sang khu vực khác. Không được tự ý cải tạo sửa đổi điện, nước và thất ở. Không được tự ý mở đường đi lối lại kinh hành. Không được đi kinh hành nhìn ngó vào thất người khác. Phải biết giữ gìn, bảo vệ những vật dụng trong Tu viện và sử dụng tiết kiệm điện nước. Khi tu tập mở điện, khi ngủ tắt điện; khi mở nước dùng thì phải lưu ý để tiết kiệm nước. Có cẩn thận, có ý tứ giữ gìn bảo vệ như vậy mới không phí phạm của đàn na thí chủ.

  5. Không tự ý gửi thư từ qua lại bằng cách ném thư vào thất người khác. Không tự ý dùng điện thoại và các phương tiện truyền thông khác với bên ngoài và nội bộ gây tạo những chướng duyên phóng tâm, khó phòng hộ 6 căn cho mình và người khác. Nếu có điện thoại di động, không dùng trong thời gian tu tập, vì phải giữ hạnh độc cư, phòng hộ sáu căn nhờ đó tâm không phóng dật. Nếu không giữ trọn vẹn hạnh độc cư thì sự tu hành chỉ hoài công. Vì thế nên xin vào lớp dự thính và rời khỏi lớp chuyên tu. Nếu có máy tính cá nhân đều được sử dụng làm bài học về Định Vô Lậu.

(34:44) B- Giữ gìn 3 đức: nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.

  1. Tất cả tu sinh đều phải lập ba đức, biết sống nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Phải biết yêu thương nhường nhịn lẫn nhau. Không gây phe nhóm trong tứ chúng gây bất hòa, gây ly gián chia rẽ. Không bí mật tụm năm, tum ba xì xèo đưa tin đồn nhảm. Dù bất cứ trường hợp nào cũng không được to tiếng gây bạo động nơi Tu viện. Mỗi tu sinh đều phải có trách nhiệm, có tinh thần đoàn kết, có ý thức duy trì bảo vệ lớp học để tu sinh yên tâm học tập được viên mãn.

  2. Tu sinh đi lao tác, không nên tập trung 2, 3 người cùng làm một việc, mà phải làm việc riêng lẻ một mình để tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, để giữ gìn trọn vẹn hạnh độc cư.

  3. Vấn đề đời sống của tu sinh phải tam thường bất túc, ít muốn biết đủ và tuyệt đối áp dụng hạnh tam y nhất bát. Nên việc sử dụng y áo và đồ dùng tứ sự được đức Trưởng lão quy định: một y thượng, 2 bộ đồ ngắn; nữ được phép 3 bộ. Nhưng nếu gặp phải khó khăn, những nhu cầu sinh hoạt cấp thiết như: thuốc men, y áo, giấy bút, xà phòng v.v.. thì được phép gửi thư trình Thầy, để Thầy xin cô Út hoặc Phật tử giúp đỡ cúng dường. Tuyệt đối không được cho hoặc nhận gì của ai để tích trữ nơi thất riêng của mình.

Mười sáu (16) điều trên đây đã được tập thể lớp học bàn bạc đóng góp ý kiến. Đó là sự thống nhất tư tưởng hành động và trở thành quy ước chung của lớp để tạo thắng duyên thiện pháp hỗ trợ cho mọi tu sinh học sớm đạt kết quả. Nếu tu sinh nào thực hiện không đúng một trong những điều khoản trên sẽ tự ý xin Thầy ra khỏi Tu viện trước khi lớp có ý kiến đề nghị. Chúng con xin ý kiến phê duyệt của đức Trưởng lão.

Đại diện Tăng: Thích Chơn Thành ký tên.

Tu sinh Nam chấp nhận quy ước của lớp học ký tên.

4. THẦY GIẢI THÍCH BẢN QUY ƯỚC

(37:33) Trưởng lão: Đây là bảng Quy ước. Hôm nay thì quý thầy, quý cư sĩ góp cái phần thêm để mỗi cái QUY ƯỚC ở trong này được áp dụng triệt để, để giúp lớp tu học của chúng ta tiến tới cái chỗ giải thoát hoàn toàn mà không có lầm lỗi.

Điều thứ nhất: “Thực hiện đúng những điều Trưởng lão đã dạy và những điều quy định về lớp học”. Nghĩa là Thầy đã dạy cách thức tu tập, các cái pháp tu tập và cái đời sống Thầy đã dạy như vậy, thì cái điều thứ nhất quý thầy và quý cư sĩ ở đây có chấp nhận không? Nghĩa là những gì Thầy dạy, những điều Thầy dạy những cái đời sống ở đây mà Thầy đã hướng dẫn, đã dạy các pháp, đều có chấp nhận không? Nếu mà chấp nhận thì mình chấp nhận cái quy ước thứ nhất của mình, thì như vậy quý thầy có chấp nhận hết không?

Đại chúng: Dạ. Chấp nhận.

(38:43) Trưởng lão: Cái quy ước thứ hai là: “Vào lớp đúng giờ. Mọi người phải có mặt tại lớp trước 5 phút. Trong giờ học không được đi lang thang bên ngoài hoặc nói chuyện với những người khác, những người dự thính cũng không nên nói chuyện”.

Dù cái người dự thính cũng không nên nói chuyện nữa, thì do đó, trong cái giờ học chúng ta đến đây không phải là cái việc chúng ta gặp nhau chúng ta nói chuyện, mà đến đây để học. Cho nên chúng ta phải giữ độc cư phòng hộ trọn vẹn. Bởi vì mục đích của chúng ta là ly dục, ly ác pháp, mà nếu chúng ta tiếp duyên không phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình thì nó sẽ tuôn vào; tuôn ra chưa hết mà lại đổ vào quá nhiều thì như vậy cuối cùng chúng ta tu hoài mà chẳng có ra gì hết. Cứ mỗi tuần lễ mà chúng ta học, một tuần lễ có 2 ngày học, mà chúng ta sống ở trong thất thì chúng ta giữ trọn vẹn không nói chuyện, nhưng cái việc mà ra đây thì chúng ta gặp nhau thì chúng ta tụm ba, tụm năm nói chuyện, thì như vậy là một cách rất sai, không đúng.

Trong điều quy ước thứ hai thì phải có mặt trước 5 phút. Ví dụ như 7 giờ, thì chúng ta phải tới trước 5 phút. Mà đến trước thì mọi người đều có thể vào lớp chúng ta ngồi ở trên bàn của chúng ta, hay hoặc là chúng ta đừng có tụm ba tụm năm đi tới đi lui ồn náo. Nói chung là trước 5 phút thì chúng ta cứ đến trước cái ghế của chúng ta đó chúng ta ngồi. Nghĩa là không nói chuyện, mình ngồi đó để mình lắng nghe từng cái tâm của mình trước huynh đệ đồng đạo của mình mà mình vẫn thấy mình sống như một mình, cái điều đó là cái điều tốt.

Vậy thì cái quy ước thứ 2 này quý thầy, quý cư sĩ có chấp nhận không?

Đại chúng: Dạ. Chấp nhận.

(40:33) Trưởng lão: “Có thời khóa tu tập riêng cho từng người đã được đức Trưởng lão phê duyệt. Không được tu theo thời khóa của mình tự đặt, muốn tu giờ nào là tu, muốn ngủ giờ nào là ngủ”.

Ở đây Thầy cho những người mà cái sức họ không có thể nào thức nhiều. Ví dụ như chúng ta thường thường là cái thời gian mà chúng ta tu tập ở đây là 7 giờ tối đến 10 giờ chúng ta mới đi ngủ, rồi 2 giờ chúng ta phải thức dậy cho đến khi tu tới 5 giờ, thì cái thời gian đó là thời gian chung; còn có người Thầy cho thời gian 7 giờ đến 9 giờ đi ngủ, rồi 3 giờ thức dậy tu đến 5 giờ, thì cái thời gian quy định như vậy. Cái người mà dở, còn hay ngủ thì Thầy cho họ lui lại cái thời gian vậy để cho họ tập cho có căn bản. Và đồng thời cái người mà tu hơn cái thời gian này, nghĩa là họ có thể tu từ 7 giờ cho đến 11 hay hoặc 12 giờ; thì lúc bấy giờ cái thời gian của họ: thí dụ họ tu 11 giờ thì họ phải dậy lúc 1 giờ, mà họ tu 12 giờ thì coi như họ tu luôn, không còn cái thời gian để họ có thể ngủ trong ban đêm. Thì như vậy là trong cái khoảng thời gian mà tu tập đó, thì ở đây có những cái người họ thức suốt đêm họ tu, thì cái thời gian đó họ đã tăng lên cái mức độ đó rồi, thì do đó họ cứ giữ đó họ tu, không có sao hết.

Nhưng họ phải tu đúng pháp, tức là họ phải tu theo pháp Thầy hướng dẫn:

Một là họ dùng cái thời gian đó họ tu Định Vô Lậu, họ ngồi họ viết bài, họ triển khai cái tri kiến của họ;

Hai là họ tu Tứ Niệm Xứ để xả tâm;

Ba là họ phải phá hôn trầm họ phải tu Thân Hành Niệm, có những cái pháp họ tu, thì họ tu trong những cái pháp đó.

Thì trong khi đó thì coi như là nó có ba cái pháp để tu tập, thì cái thời gian của họ đã nhất định cho họ, thì cái người khác cái sức của mình không có tu được như vậy thì mình đừng bắt chước, mình bắt chước mình làm không được mà cuối cùng là mình thất bại, còn người ta tập từ lâu rồi, người ta đã quen rồi, người ta tu tập vậy được.

(42:56) Còn trong cái thời gian buổi tối đó thì mấy con đừng có lấy kinh sách đọc, nghĩ là lấy kinh sách đọc để cho mình tìm hiểu. Ở đây nó không còn phải tìm hiểu nữa, mà ở đây còn tu, tu để được giải thoát chứ không tìm hiểu nữa. Bởi vì tìm hiểu là trước kia mình còn chưa hiểu, con nay có Thầy hướng dẫn, cứ căn cứ vào Thầy.

Cho nên các con nghe hồi thời đức Phật, thì các vị Tỳ kheo nói cứ dựa vào đức Phật chứ không có tin ai nữa. Còn bây giờ các con tin kinh sách Phật thì thật sự ra những lời Phật dạy thì Thầy đã xác định những cái lời Phật dạy. Hôm nay, Thầy dạy những cái phương pháp mà đức Phật đã dạy ngày xưa, thì bây giờ Thầy cũng dạy y chứ không có khác và tin tưởng nơi Thầy là một cái người có kinh nghiệm trên cái sự tu tập đó; cho nên bây giờ Thầy dẫn dắt thì nó đúng hơn; còn kinh sách nó không biết đường đâu nó dẫn, nó nói vậy chứ nhiều khi nó làm cho chúng ta hiểu lầm lạc. Cho nên với cái sức chúng ta tu chưa xong thì chúng ta đọc kinh Phật là chắc chắn chúng ta hiểu không nỗi đâu; nếu không có những lời Phật dạy thì mấy con đọc kinh Nikaya mấy con không hiểu đâu. Còn khi mà có những lời Phật dạy ra đời thì Thầy đã hướng dẫn, Thầy đã giải thích, chú thích để làm cho chúng ta hiểu được cái ý của Phật qua kinh nghiệm tu của người đã đạt được; chứ không phải cái người tu mà chưa đạt được mà hiểu thì cũng chật hết, sai, không đúng đâu.

Cho nên theo thời khóa mà tu tập như vậy và pháp môn như vậy thì mấy con giữ y như vậy. Nhưng các con lưu ý trên cái phần này. Thầy nói căn bản nhất là 1 phút nhiếp tâm và an trú tâm, mọi người phải đạt cho được 1 phút nhiếp tâm. Còn cái người nào mà tu được 2 phút, 5 phút, 3 phút, 20 phút, 30 phút vẫn tu được, vẫn như thường chứ không có sai; chứ không phải bây giờ tôi tu 1 phút thì bắt buộc các con phải tu 1 phút, không phải. Nhưng mấy con tu kỹ lại coi mình có nhiếp tâm, an trú được hay không, chứ không khéo mình cứ mình tu 30 phút mà cứ dậm chân tại chỗ hoài thì không tiến tới gì được nữa hết, thì cái vấn đề đó không phải vậy đâu.

(45:02) Ở đây cái mục đích chúng ta ly dục, ly ác pháp để tâm định tỉnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng, chứ không phải chỗ chúng ta đi vào chỗ nhiếp tâm và an trú tâm để rồi tâm định tỉnh, không phải có điều đó đâu. Tâm định tỉnh là do chúng ta ly dục, ly ác pháp mà định tỉnh. Còn nhiếp tâm và an trú để chúng ta căn cứ vào chỗ đó mà biết rằng khi chúng ta tu Định Vô Lậu, chúng ta xả thì cái sự nhiếp tâm và an trú nó tự tăng lên, chứ không phải do chúng ta ức chế mà nó tăng lên. Cách thức chúng ta tu nó có cái phương pháp, nó có cách hẳn hòi, chứ không phải là cách thức ức chế tâm mà từ lâu tới giờ người ta cứ nhắm ngay vào chỗ ức chế tâm mà đi chỗ hết niệm. Ở đây không phải, chỗ hết niệm là hết tham, sân, si là hết niệm. Mà muốn hết tham, sân, si thì phải ly dục, ly ác pháp; mà ly dục, ly ác pháp phải xả tâm; mà xả tâm bằng tri kiến giải thoát của chúng ta, bằng cái sự hiểu biết xả tâm chứ không phải bằng cái định mà xả được. Chúng ta phải hiểu, khi hiểu nó mới xả. Chúng ta hiểu đây là ác pháp thì làm sao chúng ta làm theo, hành theo các ác pháp đó, bởi vì ác pháp nó đem đến khổ mình, khổ người; còn đây là thiện pháp thì chúng ta tăng trưởng chứ có sao đâu, chúng ta sống với nó chứ có sao đâu, nó đem đến hạnh phúc cho mình, cho người.

(46:12) Bằng chứng mấy con thấy con đường tu của chúng ta nó cụ thể, nó rõ ràng, bằng cái sự xả tâm, bằng cái tri kiến của chúng ta chứ không phải bằng ức chế tâm. Mà khi chúng ta xả ít thì chúng ta an trú tâm ít, mà xả nhiều thì an trú nhiều, mà xả nhiều nữa thì an trú nhiều nữa; mà an trú cho đến khi 12 tiếng đồng hồ, 24 tiếng đồng hồ, tâm thanh thản, an lạc, vô sự là tự nó chứ đâu phải. Do chúng ta xả mà nó được, chứ nếu mà chúng ta không xả mà chúng ta ức chế thì coi như chúng ta được cái được đó là chúng ta lọt vào trong tưởng mất đi, nó không phải là con đường tu của chúng ta như vậy.

Cho nên ở đây tất cả những cái điều này hiện giờ các thầy, quý cư sĩ đều hiểu rõ rồi, không còn bị lạc lầm nữa rồi, cách thức tu của chúng ta cũng hiểu rõ rồi. Cho nên thí dụ chúng ta ngồi mà chúng ta ức chế tâm để kéo 1 giờ, 2 giờ, hay hoặc là 30 phút để tâm không niệm là chúng ta tu sai. Ở đây chúng ta nhắm vào cái tâm tham, sân, si chúng ta có ly hết không, thì cái đó là cái đúng. Cho nên cái quy ước 3 thì các thầy có chấp nhận theo cái thời khóa của mình không?

Đại chúng: Dạ có.

Trưởng lão: Nếu chấp nhận thì mình tu theo cái thời khóa thời gian đó mình đã quy định.

(47:28) Quy ước thứ 4: ”…​ Có bài tập đầy đủ, nộp bài đúng quy định, đúng thời gian, không tự ý mang bài để nộp riêng”.

Nghĩa là có khi mấy thầy làm xong cái xách lên nộp, giờ nào cũng nộp được. Thật sự ra thì Thầy mắc bận công việc rất nhiều, nhiều khi đưa Thầy Thầy bỏ đó, nó lạc. Cho nên ví dụ như giờ các con thấy một cái lớp học ngoài đời thôi, khi cho một cái bài luận thì về đó tới cái tuần sau đến cái giờ mà nộp bài thì họ đưa lên nộp bài đúng ngày giờ. Còn mình thí dụ như bây giờ đó, khi mà làm bài rồi, mình để lại, chứ không phải làm rồi cái đem nộp đâu. Mà để lại thì mình đọc, mình đọc lại nữa, tới cái giờ mà Định Vô Lậu đó, mình sẽ đọc lại coi cái bài mình còn thiếu hay hoặc nó như thế nào, rồi mình đọc lại một lần rồi mình bỏ qua. Thầy nói thực sự ra, khi mà viết một cuốn sách, Thầy nói như thế này để mấy con thấy, không phải viết rồi là thôi đâu, người ta soạn thảo ra cái cuốn sách của người ta, khi người ta soạn thảo ra rồi, cái bài người ta soạn thảo người ta bỏ qua 1 ngày, 2 ngày người ta đọc lại người ta thấy thiếu khuyết nhiều thì người ta chỉnh lại; rồi người ta chỉnh rồi nhưng chưa ổn đâu; rồi người ta bỏ qua đi; rồi năm ba ngày, mười ngày, hay nửa tháng người ta đọc lại người ta thấy còn những cái cần phải thêm và những cái thừa cần phải bỏ ra. Cho nên cuối cùng cái bài của người ta rất hay, người ta viết không còn sót. Còn khi chúng ta viết rồi chúng ta coi như xong thì đây là mấy người học trò lười biếng, cho nên rất là dở.

(49:08) Cho nên khi mà viết rồi mà muốn cho thấm nhuần cái tri kiến giải thoát này thì chúng ta viết rồi chúng ta để qua một bên đi, chúng ta khoan đọc đã, đọc rồi chúng ta cũng có bấy nhiêu đó thôi không khác gì đâu, chúng ta bỏ đi đến ngày hôm sau chúng ta đọc thấy nó có khác, rồi 2 ngày, 3 ngày chúng ta đọc lại chúng ta thấy có khác. Cho nên chúng ta sửa đi sửa lại rất nhiều lần cái bài chúng ta, nó làm cho tri kiến chúng ta sống đúng như thật.

Chúng ta thấy cái này nó còn không thật, nói như thế này không thật, chúng ta biết nói vậy sai. Chứ ở đây chúng ta muốn nó như thật mà. Cho nên chúng ta đọc lại chúng ta thấy mình nói như vậy còn láo này, còn vọng ngữ. Mà vọng ngữ với mình được không, tại vì mình thêm nó không đúng, tức là mình có tội vọng ngữ với mình đó. Cho nên khi mà người khác đọc cho người khác nghe thì người ta tưởng mình nói thật, nhưng coi chừng mình mang tội vọng ngữ đó, mình nói sai, nói không đúng sự thật. Cho nên làm ở đây làm như thật, nói như thật chứ không phải bịa đặt ra. Có nhiều người bịa đặt trên trời dưới đất. Thầy nói đưa ra cái mẩu chuyện, Thầy biết trời đất ơi cái người này có bao giờ ăn trộm, ăn cướp người ta đâu, có biết cái lối mà sanh máu mặt bao giờ đâu, đâu có lối nghi ngờ dòm ngó trước sau đâu, mình chỉ nói vậy thôi chứ mình có trạng thái hồi hộp như cái thằng ăn trộm bao giờ đâu, tại mình có ăn trộm ăn cắp của ai bao giờ đâu mà biết, vậy mà nói cái chuyện này dám nói như vậy đó; Thầy nói là khi nào mình có thì mình hãy nói, còn không có thì đừng nói, nói coi chừng mình nói láo, nói trật.

(50:33) Cho nên trong khi mà viết thì mấy con cứ nhớ rằng, khi mà viết rồi để lại trong một tuần lễ, tới thứ ba mấy con sẽ gặp Thầy mấy con sẽ nộp. Như hôm nay mấy con đem bài mấy con nộp, chứ đừng có xách đi nộp liền. Mấy con nghĩ rằng nộp liền như vậy là mấy con đã sai về cái sự quán rồi. Một cái đề tài mà quán một lần thì chưa hay đâu, lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, lần cuối cùng thì cái bài của mấy con suốt một tuần lễ mấy con đem nộp Thầy, cái bài mấy con chính xác lắm.

Rồi có nhiều khi như vậy, mấy con viết không biết mình quán như thế này, vừa cái dàn bài của mình như vậy, mình lập như vậy, mình quán như vậy, từ cái chỗ điểm A tới cái chỗ Z của mình như vậy có đúng không? Mình suy tư mà. Cái hướng, cái tri kiến của mình làm việc nó có kế hoạch, cái dàn bài cụ thể rõ ràng, nó có cái lộ trình suy tư của nó chứ, chứ đâu phải mình muốn suy tư thế nào thì suy tư. Hồi nào tới giờ đó mình không biết nên mình suy tư lung tung.

Đó, thì nhớ kỹ trong cái vấn đề cái quy ước này, làm bài rồi tới cái ngày nộp bài là cái ngày đó tất cả mọi người đều nộp, thì như vậy cái quy điều quy ước này quý thầy có chấp nhận không?

Đại chúng: Dạ. Chấp nhận.

Trưởng lão: Vậy là tốt lắm.

(51:48) “Không được đến thất làm việc của Trưởng lão vì Trưởng lão đã dành cho mỗi ngày có hai giờ thưa hỏi: sáng 7 giờ; chiều 2 giờ”

Nghĩa là ví dụ bữa nay mấy con học cái giờ này, chiều mấy con còn cái giờ của mấy con là 2 giờ chiều, Thầy dành cho một giờ gặp Thầy để hỏi có cái gì thì hỏi. Cũng như bây giờ tới cái giờ mình đi khất thực rồi mà còn những điều mình hỏi chưa xong, thì buổi chiều 2 giờ mình trở lại đây. Bởi vì tới 10 giờ là mình chuẩn bị đi khất thực rồi, cho nên mình đâu còn hỏi, mà hỏi tới 12 giờ thì trễ cái giờ mình thọ thực sao cho nên mình nghỉ. Nhưng mà chiều 2 giờ, những người nào còn những điều kiện cần thưa hỏi Thầy thì sẽ đến đây hỏi Thầy.

(52:35) Và trong cái sự thưa hỏi đó có nhiều điều, Thầy xin nhắc lại cái quy ước này. Nghĩa là 2 giờ dành thưa hỏi đó thì trong khi đó có những điều mà mình không có nói cho người khác nghe, mà có những điều người khác được nghe, nhưng mà hầu hết là thưa hỏi về vấn đề cho riêng mình. Còn vấn đề hỏi cho chung mọi người để học tu thì cùng nhau hỏi thì đúng; đem những cái câu chuyện mà mình hỏi có mục đích để giúp đỡ cho các bạn đồng tu mình biết cách tu. Như cái câu hỏi của sư Pháp Ngộ ở đây. Thầy đem một cái ví dụ để biết cách thức hỏi, mà hỏi chung để có lợi ích chung. Còn cái câu hỏi riêng như: “Con bây giờ con tu tập như vậy, con bị như vậy hay hoặc nó khởi ra cái tâm dục con như thế này, thế khác…​” Cái đó là phải tự cá nhân của mỗi người hỏi Thầy, chứ mấy con hỏi chung chung cho những người khác thì có nhiều điều mình rất ngại, các con hiểu không? Cho nên đấy là những cái hỏi riêng.

Còn đây là những cái hỏi chung nè, Thầy xin đọc cái câu hỏi chung để cho mấy con thấy, để được trả lời chung, cho hiểu chung coi có đúng hay sai.

Ở đây là sư Pháp Ngộ hỏi: “Trong thời kỳ đức Phật có vị tu hành chưa đắc đạo, có vị thì khi đi ngang qua khu rừng gặp một ngọn lửa đang cháy. Thấy lửa cháy như vậy, vị ấy quán về lửa rồi đắc đạo. Phải không? Quán về lửa không à, đắc đạo à? Phải không? Các con thấy không? Vậy có phải vị ấy quán đề mục về hỏa giới hành không? Bạch Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ. Còn một vị nữa đi ngang qua dòng suối, thấy suối đang chảy mà nước nhỏ từng giọt, vị ấy quán xét về nước, như vậy rồi đắc đạo. Vậy có phải vị ấy quán với đề mục về thủy giới hành không? Xin Thầy chỉ cho chúng con được rõ. Có phải 2 vị trên dùng quán vô lậu không?” Đó là câu hỏi chung đó mấy con.

(54:49) Hỏi cho mọi người biết, mà vừa là hỏi cho mình biết, bởi vì mình đọc trong kinh mình thấy một vị quán về lửa, nhưng mà đắc đạo. Thì các con đã học ở trong cái giới hành Sa di mấy con thấy 25 cái giới hành đó, có giới quán lửa, có giới quán nước, có giới quán đất đó, thì đó là Định Vô Lậu chứ gì. Đã quán thì phải Định Vô Lậu, phải tư duy suy nghĩ chứ gì. Mà từ đó mình trở thành như lửa, mình trở thành như đất, mình trở thành như nước. Mà mình đã trở thành như lửa, như đất, như nước thì không phải là chứng đạo sao? Thì có phải tu pháp nào nữa không? Các con thấy rõ ràng.

Cho nên sư Pháp Ngộ đem ra những cái mẩu chuyện của những vị đệ tử của đức Phật ngày xưa. Nghĩa là người ta tu có cái nhiêu đó người ta quán. Cho nên trong những cái phương pháp tu tập nó có nhiều cái điều kiện mà người ta chứng quả A La Hán rất dễ dàng không có khó khăn.

Cho nên Thầy biết đạo Phật không phải là tu chứng quả A La Hán khó, cho nên Thầy dám tuyên bố với quý vị là Thầy mở cái lớp này đào tạo những bậc A La Hán nè. Nó đâu phải khó, nếu khó Thầy dám tuyên bố không?

Nếu mà Thầy nói bây giờ Thầy đào tạo cho mấy con tàng hình biến hóa thì khó đó, chứ Thầy đào tạo cho mấy con vô lậu mà, đâu có khó đâu. Với cái tri kiến hiểu biết không lẽ người ta chửi mấy con mấy con hiểu biết mà giờ mấy con chửi lộn với người ta sao, có phải không? Đâu có phải điều đó đâu.

Cho nên khi chúng ta hiểu biết tức là Minh rồi, còn hiện giờ chúng ta là những người Vô Minh. Nhờ mình có tu Định Vô Lậu, có quán, có suy tư làm chúng ta Minh, mà Minh thì có ác pháp nào tác động được chúng ta không? Không tác động được thì chúng ta giải thoát chứ gì, chứ đâu phải vô rừng già mà ngồi đó mà thành Phật được. Có phải không? Đâu phải.

Nhưng mà cái người tu người ta bỏ hết cuộc đời người ta sống trong rừng già hoặc là người ta sống ở cách xa thành thị, nhưng mà đức Phật hồi đó đâu có chấp nhận chúng ta phải sống biệt ở trong rừng già, như lên núi Hy Mã Lạp Sơn, ngồi trên đó mà luyện thần thông. Mà đức Phật luôn luôn ở gần cái nơi mà có thể đi xin ăn sống được, không có quá vất vả, cho nên vẫn tu chứng đạo chứ đâu phải không, chứng đạo bằng cách thức dễ dàng không có khó khăn.

Đạo Phật không có khó đâu. Thầy nói đạo Phật không có khó, nhưng Giới chúng ta sống được hay không thôi. Có chết chóc gì đâu, Thầy thấy ăn ngày một bữa nè, sống như vậy chúng ta không thèm ca hát, không nghe ca hát, chúng ta làm đúng như vậy có khó gì đâu. Cũng bình thường như mọi người chứ có gì đâu mà khổ hạnh, tại chúng ta chạy theo dục mà chúng ta ham thích rồi chúng ta sinh ra khổ, chứ hoàn toàn là không có khó.

Đây là cái câu hỏi mà Thầy nói đó là trả lời chung. Đó thì con thấy, đây là trả lời để cái sự xác định, quyết định cho chúng ta biết là cái Định Vô Lậu là chúng ta sẽ đạt được chứng đạo đó, chứ không có cái gì khác hơn hết.

Cho nên cái quy ước này thì chúng ta phải có cái hỏi riêng và có cái hỏi chung. Cái người nào mà hỏi chung thì chúng ta họp nhau chúng ta hỏi; rồi cái người nào mà hỏi riêng, thì ví dụ như bây giờ có những cái gì mà cần hỏi riêng thì chiều nay gặp Thầy, 2 giờ gặp Thầy sẽ hỏi riêng. Có những điều mà chúng ta tu khó khăn hoặc là cái gì đó mà chúng ta không nói cho mọi người nghe được thì chúng ta có cái thời gian chúng ta hỏi riêng.

HẾT BĂNG


Trích dẫn - Ghi chú - Copy