GIỚI HÀNH 11 - CÁC PHÁP TU TRÊN THÂN - THỌ - TÂM - PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [47:09]
(0:00) … Người ta đặt cái pháp môn nó không đúng cái chỗ của nó. Cũng như bây giờ thay vì bây giờ mình dùng cái miếng giẻ để mình lau cái sàn này cho nó sạch, thì người ta lại dùng cái tấm thảm người ta trải lên, người ta làm cho khuất cái bẩn thỉu này đi. Nhưng mà che đậy sao được? Thầy nói che đậy không được đâu.
Cho nên nói bây giờ mình cầu về Cực Lạc, thì đó là cái tấm thảm để che đậy cái lớp bẩn của bốn cái chỗ bẩn thỉu này. Thiền Tông cũng vậy, nó cũng đi tìm một cái Phật Tánh để nó che đậy trên cái bẩn thỉu của thân nó, thì làm sao mà nó hết bẩn thỉu được?
Thiền Tông cũng vậy, đi tìm một cái Phật Tánh tưởng tượng, mê hoặc kẻ khác bằng bốn tánh Niết Bàn: thường, lạc, ngã, tịnh, thì có giải quyết gì được cho thân thọ tâm pháp thanh tịnh đâu? Thật sự ra, lấy cái Phật Tánh là làm cái tấm thảm để che trên cái sàn nhà dơ, thì nó cũng chẳng giải quyết gì được hết.
Ngược lại, chúng ta đem Tứ Chánh Cần đặt ngay trên bốn lĩnh vực này, áp dụng ba loại định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu, siêng năng tu tập, trau dồi, dứt ác tăng thiện, khiến cho bốn chỗ này có sự giải thoát an vui, thanh thản ngay liền tức khắc.
Phải rõ không? Các thầy thấy rất rõ mà, ngay ở trên chỗ đó mà mình đặt Tứ Chánh Cần, rồi mình thực hiện bốn cái loại thiền định này, nó làm cho ngăn được ác, nó làm cho chúng ta tăng trưởng cái thiện pháp, sống một cái cuộc sống an lạc, thanh thản ngay liền tức khắc trong cái kiếp đời tu. Chớ đâu phải mà tu đợi tới chừng chết rồi mới đi về Cực Lạc! Đó thì nó rõ ràng và cụ thể.
(01:41) Mà nếu mà người mà biết được cái sự giải thoát đó, thì chúng ta còn tha thiết gì với cái sang, cái đẹp, cái tiền bạc, của cải, xe hơi, nhà lầu ở thế gian này nữa không?
Thử hỏi bây giờ mình có khả năng mình làm được những cái đó đi, mà mình cứ giữ được những cái đó đời này đến đời khác cho mình không, hay là chỉ có cao lắm là trăm tuổi rồi cũng bỏ đi? Làm chi cho cực mà bỏ đi cho người ta ăn?
Thành ra trong cái vấn đề đó, chúng ta đam mê nó sai. Chạy theo những cái dục lạc thế gian nó có ích lợi gì? Mà nó làm cho bốn cái nơi của thân thọ tâm pháp của chúng ta càng ô nhiễm thêm, càng đau khổ thêm, có ích lợi gì?
Cho nên chúng ta hiểu biết, cái trí tuệ chúng ta hiểu biết. Chúng ta vô minh, chúng ta thấy mình làm được vậy là thiên hạ nói mình giàu sang này kia, mình đi ngoại quốc rồi có tiền nhiều. Sự thật ở bên đó hốt rác, mới dành dụm tiền mới gửi về đây, chớ ở bên đó bộ giàu hơn mình ở đây sao? Họ còn mạt rệp hơn mình ở đây nữa!
(02:36) Cho nên thật sự ra lấy cái giàu thì chúng ta sẽ thấy chúng ta chẳng bằng ai hết, mà lấy cái nghèo thì chúng ta cũng chẳng nghèo hơn ai hết. Bởi vì chúng ta nghèo còn có người nghèo hơn, mà giàu thì cũng có người giàu hơn.
Cho nên chúng ta phải lấy cái trung đạo, chúng ta chẳng sợ nghèo mà cũng chẳng sợ giàu, chỉ giữ làm sao cái tâm chúng ta thanh thản an lạc, lìa xa các ác pháp, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy được cái sự giải thoát.
Còn giàu biết chừng nào gọi là cái mức giàu gọi là thỏa mãn chúng ta, mà nghèo đến cái mức độ nào gọi là nghèo cơ cực của chúng ta đâu? Cho nên có nhiều người đứng ở trong cái danh giả mà họ tưởng rằng đó là thật. Bây giờ gia đình mình nghèo, ai đâu mà mang cơm mang vợ cứ chê gia đình mình hoài sao? Sự thật nghèo mà không khổ, còn người ta giàu người ta khổ thì sao?
Cho nên ngày xưa ông Trang Tử, ổng đi đường ổng mặc quần áo rách rưới, chắp vá tùm lum, đội cái nón lá mà rách bên đây bên kia tơi tả. Có một cái người bạn gặp ông: “Trời ơi, tôi lâu nay mới gặp ông, ông nghèo khổ quá trời.” Ổng nói: “Anh nói trật rồi, tui nghèo thì nghèo chớ tui đâu có khổ, anh có biết tâm tui khổ không?”
Có nhiều người nghèo mà người ta không khổ, còn có nhiều người nghèo mà khổ. Nghèo mà nghĩ rằng mình thua người ta, mình này kia thì mình khổ.
Mà cái nghèo mà mình không thấy mình thua ai hết, tôi thấy đời tôi, tâm hồn tôi thanh thản, ngày có bữa cơm cũng tốt mà không có tôi cũng vui, tôi đâu có đòi hỏi mấy vấn đề đó đâu. Nghiệp của tôi nó vậy thì tôi an vui với vậy, cho nên tôi hoàn toàn giải thoát, không ngó lên mà không ngó xuống. Phước báu tôi có, tôi chẳng lo nó cũng giàu, mà tôi không có phước báu thì bây giờ tôi có muốn giàu nó cũng không giàu.
Cho nên cái lý của Phật pháp là giúp cho chúng ta, từ cái tri kiến hiểu biết đó, nó giúp chúng ta làm cho bốn cái chỗ này càng thanh tịnh.
(04:33) Bởi vậy, khi chúng ta tu hành mà chúng ta không có đặt cái pháp mà tu đúng, thì chúng ta không có giải thoát được. Một kết quả không có thời gian chờ đợi.
Nghĩa là, khi mà chúng ta đặt Tứ Chánh Cần vào mà chúng ta tu ba cái Định rồi, thì cái kết quả nó ngay liền tức khắc, chớ không phải có thời gian, chúng ta sẽ thấy có sự giải thoát nơi thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta.
Chỉ ai có nhiệt tâm quyết tìm đường thoát khổ của kiếp làm người thì sẽ được giải thoát liền. Nghĩa là ngay liền chúng ta được giải thoát hoàn toàn, chớ không phải tu phải năm tháng, ba tháng, mà ngay liền chúng ta thấy sự giải thoát. Từ cái sự giải thoát nhỏ, chúng ta kéo dài cái thời gian đó, chúng ta sẽ thấy cái sự giải thoát lớn, từ đó chúng ta sẽ thấy làm chủ được sự sanh tử, chấm dứt được luân hồi.
Đây là đặt đúng pháp, tu đúng chỗ, nên cuộc sống được giải thoát hoàn toàn. Nghĩa là chúng ta đặt đúng cái pháp, cái pháp đó phải đặt đúng.
Cũng như bây giờ chúng ta chưa có tu Tứ Chánh Cần mà chúng ta vội ức chế tâm của mình bằng pháp môn Sổ Tức, hay hoặc là Định Niệm Hơi Thở đi, đó tức là chúng ta đã đặt pháp sai.
Thay vì cái pháp đó đúng chớ không phải sai, từ cái Định Niệm Hơi Thở cho đến cái Tứ Chánh Cần, nhưng mà biết rằng chúng ta phải tu như thế nào? Cái pháp nào đặt đúng cái vị trí nó? Mà trong cái lúc chúng ta mới tu, hay là tu lâu? Tu lâu thì chúng ta phải đạt được những kết quả nào, rồi từng đó chúng ta mới tiến tới tu các pháp khác,
Còn bây giờ chưa gì chúng ta đảo lộn. Cũng như một người chưa có tu giới luật, thì bắt đầu họ lại tu trí tuệ, hay hoặc là họ tu thiền định. Thì thử hỏi họ tu ngược ngạo như vậy làm sao họ có được cái Chánh Định đâu, họ làm sao họ được cái Chánh Tuệ đâu? Cho nên tất cả những cái mà họ được đều là tà tuệ, tà định chớ không phải là Chánh Định.
Cho nên mình tu hành mà không có một thiện hữu tri thức chỉ cho mình biết cái pháp đặt đúng cái thời điểm, đặt đúng trong cái giai đoạn của mình tu tập, thì mình sẽ tu sai.
(06:36) Như từ lâu tới giờ Thầy không dám triển khai các cái pháp này, sợ đụng chạm các vị Tôn túc, các bậc Hòa thượng họ đã giải thích sai cái Phật pháp, cho nên sợ làm động các thầy. Mà các thầy đó là những bậc thầy Tổ của mình, mình nói ra thì sợ làm mấy ông mắc cỡ đi, rồi mấy ổng gây gổ với mình đi, rồi coi mình không ra gì đi, thì thầy trò nó có những cái sự chướng quá.
Cho nên không dám nói, làm thinh mà chịu. Cho đến bây giờ mới dám bạo gan hé miệng nói một chút, là tại vì mình lớn tuổi rồi, sắp sửa chết rồi, không dám nói để mai mốt chết rồi ai nói cho?
Cho nên Thầy thấy bây giờ Thầy sáu mươi mấy tuổi rồi, mà Thầy không dám nói nữa đi, thì chắc chắn là mai mốt chết rồi ai dám nói? Còn nhỏ nhỏ tuổi thì đâu có dám nói. Lúc mà Thầy mới bốn mươi, năm mươi tuổi còn sức khỏe nói đâu được, mấy ông đó lớn tuổi ổng nẹt mình chết được. Còn giờ lớn rồi, chắc ổng cũng thấy mình già rồi thôi cũng nói sơ sơ chớ cũng không dám nói luôn.
Chớ còn nhỏ nhỏ như Thầy bây giờ, như Mật Hạnh nhỏ nhỏ vậy mà nói bậy là Thầy tát tai liền. Bởi vì nó còn nhỏ, mình có thể la mắng nó được, dù là bậy nó cũng không dám nói. Còn bây giờ Thầy già rồi, như cỡ này mà các Hòa thượng có rầy đi nữa, họ cũng nói nhẹ nhẹ chớ họ cũng không nói quá lố.
Cho nên già rồi dám ăn dám nói chớ còn nhỏ nhỏ nói bậy chúng đánh được. Cho nên ở đây bây giờ Thầy nói thẳng, thì họ có rầy la gì thì họ cũng nói, ở, nó cũng lớn rồi, nói ít ít, nói ít ít thôi. Đó là cái tâm lý mà, mình phải hiểu chung như vậy.
Cho nên bây giờ dám nói thẳng. Từ cái ngày nói thẳng thì cho nên phải đặt đúng pháp để mà tu. Vì vậy mà trong lúc này, người nào mà đủ duyên bước vào mà mới tu, Thầy nói đúng pháp thì các con sẽ tu nhanh.
Mà trước kia không có dám nói, nói sợ các thầy mình, ổng buồn, thứ nhất. Thứ hai, ổng già rồi ổng buồn ổng chết, thì ổng đổ tội cho mình, là tại mình nói ổng buồn ổng tức ổng chết, thì mình cũng ăn năn hối hận. Còn bây giờ đó, mình già rồi, thì ổng cũng già rồi, bất quá thì mình nói ổng có giận mình ông chết, mình cũng chết theo ông cũng không gì, thầy trò cùng chết với nhau có gì đâu!
Cho nên bây giờ cứ nói thẳng thôi. Mà nói thẳng thì để làm sao? Để cho cái thế hệ sau này người ta biết được cách thức tu tập, người ta không có lầm lạc đường tu của đạo Phật. Người ta không mất thì giờ, người ta tu mau thành tựu, người ta mới tu giải thoát liền.
(08:52) Cho nên ở đây Thầy nói mạnh: nếu chúng ta đặt Tứ Thánh Định trên bốn lãnh vực này để trau dồi tu tập và rèn luyện, khiến cho bốn chỗ này trở thành một đạo lực kinh khủng, một đạo lực kinh hồn, làm chủ được sự sống chết của kiếp người.
Nghĩa là khi mà chúng ta đặt cái Tứ Chánh Cần trên cái này chúng ta tu các định, thì chúng ta sẽ dứt ác, tăng trưởng thiện pháp, làm cho tâm của chúng ta giải thoát, làm cho cuộc đời chúng ta, sống cuộc sống của chúng ta, hàng ngày chúng ta thấy an vui thanh thản, không có còn khổ sở, không còn lo lắng, thương ghét ai hết, không còn giận hờn cái gì hết.
Đó là chúng ta đặt đúng cái Tứ Chánh Cần. Còn bây giờ nếu mà chúng ta đã thấy được cái tâm ly dục ly ác pháp rồi, thì bắt đầu chúng ta đem Tứ Thánh Định chúng ta đặt lên trên đó mà chúng ta tu.
Nghĩa là trên bốn cái chỗ này này. Chớ Tứ Niệm Xứ nó không có pháp nào hết, nó phải lấy các pháp đó mà để thực hiện ở trên đó. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta đặt Tứ Thánh Định trên này mà chúng ta tu.
Thì từ cái chỗ Tứ Thánh Định này, nó tạo thành cho chúng ta cái một cái đạo lực kinh hồn, nghĩa là muốn làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta rất dễ dàng.
Chỉ có Tứ Thánh Định này nó mới có thể làm chủ được sự sống chết, còn ngoài cái bốn Thánh Định này thì không có một thứ thiền định nào mà làm chủ được sự sống chết đâu.
Bởi vì có thứ thiền định nào mà nói rằng tịnh chỉ hơi thở, các hành trong thân ngưng? Chỉ có Tứ Thánh Định này mới dám xác định được. Khi tu mà nhập vào cái định đó, thì hơi thở phải ngưng, các hành trong thân ngưng, không có thở nữa.
Vì thế mà chúng ta biết nó đã làm (chủ). Vì cái người sống là còn thở, mà người chết có thở không? Ở đây quý thầy và các con bên nữ các con thấy rõ không? Cái người chết có thở không? Nếu mà còn thở ai dám nói người đó chết? Thế mà cái người mà nhập định hơi thở ngưng hoàn toàn mà không chết, thì không phải là làm chủ được cái sự sống chết sao? Nó rõ ràng.
(10:55) Vì thế chúng ta đã làm chủ được sanh, già, bệnh, chết, đạt được mục đích thoát khổ của đạo Phật. Bởi vì chính cái mục đích của đạo Phật là nhắm vào cái chỗ sanh, già, bệnh, chết, để mà chúng ta đạt được cái đó, chớ không phải đi đạt được cái Phật Tánh hay hoặc là đạt được cái cảnh giới Cực Lạc, hay hoặc là đạt được cái thần thông phép tắc như Mật Tông? Nó không có chuyện đó đâu.
Ở đây cái mục đích của nó là nhắm vào sanh, già, bệnh, chết, bốn cái khổ của kiếp người. Mà chúng ta đạt được cái mục đích đó, thì tức là đạt được cái mục đích của đạo Phật.
Đạo Phật ra đời là nhằm giải quyết cái khổ của con người, là giải quyết cái đời sống, sanh nó là cái đời sống, hàng ngày chúng ta tiếp duyên nhau, chúng ta sanh sống, chúng ta làm chuyện này chuyện khác, mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thanh thản an vui, không có sự gì buồn rầu, giận hờn, phiền não, thì như vậy là chúng ta đã làm chủ được cái sanh.
Rồi bây giờ già, chúng ta làm chủ cho cái thân của chúng ta nè, đừng có già nè, thì chúng ta đi vào ở trong bốn cái thiền định này thì chúng ta sẽ làm chủ được.
Bây giờ cái bệnh nè, bệnh thì nó đau, nó nhức, nó khổ sở. Mà bây giờ cái thân của chúng ta nó làm chủ được cái bệnh, khi nó đau chúng ta bảo đừng đau thì nó không đau, thì đó tức là chúng ta làm chủ được nó rồi. Cho nên nhân quả chúng ta làm chủ được.
Và bây giờ chết thì hơi thở phải ngưng. Thế mà nó ngưng, mà chúng ta chưa cái bỏ cái thân này thì chúng ta phục hồi sự sống nó thở lại, nó sống. Rõ ràng là chúng ta làm chủ được cái sống chết rồi. Đó là cái mục đích của đạo Phật.
(12:17) Ngược lại các pháp môn kia giỏi lý luận, hý ngôn, mơ hồ, trừu tượng, huyễn hoặc, không thực tế và cụ thể, nên càng tu thì càng chạy theo danh lợi, ác pháp trên bốn lãnh vực này càng tăng trưởng nhiều hơn.
Nghĩa là trong khi đó người ta tu những cái pháp kia, thì mình thấy rõ ràng, càng ngày nó càng sai lệch, nó càng phá giới.
Tịnh Độ thì các thầy tu riết rồi thì ông nào cũng có vợ, có con, rồi cái chùa biến thành gia đình, sanh sống làm ăn, làm nghề này nghề kia. Người khéo léo thì làm nghề thầy thuốc, người vụng thì họ làm những cái chuyện khác, cày bừa, nuôi heo, gà, vịt. Chắc chắn là quý thầy có trực tiếp sống với trong cái thời Tịnh Độ hưng thịnh, thì các chùa đều là sống kiểu đó hết.
Thậm chí như bây giờ, cái ông thầy chùa ở cái chùa đó, mà ổng có ruộng, ổng cấy ruộng cấy lúa này kia, qua cái mùa có cá, ổng làm sao ổng bắt cá ổng ăn thịt hết, thì như vậy là rõ ràng là như thế nào? Y như cái người thế gian chớ đâu còn cái gì nữa, đâu có khác nhau.
Đó. Mà bây giờ thí dụ như, mấy vị đó hiện bây giờ họ đều là nằm ở trong Tịnh Độ, và bây giờ họ lại làm lớn ở trong Giáo Hội nữa. Rõ ràng là họ đi, làm sao bắt cá, họ xách luồng họ đi đặt ở theo cái đường nước chảy ở ruộng để mà bắt cá ăn. Mà bây giờ họ làm lớn, thì thử nghĩ coi cái Giáo hội của chúng ta như thế nào?
Nó lạ lùng lắm, nó lạ lùng lắm, thật sự nó rất là lạ lùng. Đạo Phật gì kì cục, Thầy chả biết gì.
Mà từ cái chỗ những cái pháp môn sai đó, nó không làm cho họ thanh tịnh, nó không làm cho họ dứt ác, mà họ làm ác, mà họ vẫn là một vị tu sĩ. Nó nhục nhã vì thấy những cái hình ảnh đó, mà đau lòng, mà đau đớn.
Họ ngồi ăn trong cái mâm ăn như thế này, bình thường! Họ ăn thịt cá chúng sanh như thường, họ coi không có thương yêu gì hết. Thậm chí có thầy, họ cũng làm lớn chớ không phải không, bánh mì người ta nhồi thịt vậy, ổng lại ổng nắm xé hai vậy ông ăn à. Ổng coi như ở trong đó đậu hủ không à.
Trời đất, Thầy nói thiệt ra, Thầy ngồi mà Thầy sượng sùng. Trời ơi, mình cái đầu cạo cũng giống như ổng, ổng đầu cạo làm như vậy, không biết là thiên hạ biết được họ cười cả đám nhau hết. Họ nói ông này cũng khéo giữ vậy thôi chớ cũng vậy thôi không có gì.
Đó. Đó là những cái mà làm đau khổ, mà chính Mật Hạnh là đi với Thầy đã chứng kiến được cái điều đó.
(14:36) Chúng ta lần lượt triển khai Tứ Niệm Xứ mà Đức Phật đã xác định dạy chúng ta tu tập những pháp nào trên đó.
Nghĩa là chúng ta triển khai ra cái Tứ Niệm Xứ này, và trong khi đó chúng ta tu về cái thân như thế nào, tu về cái tâm như thế nào, tu về cái thọ như thế nào, tu về các pháp phải dùng các pháp như thế nào để tu? Thì ở trên cái chỗ mà chúng ta tu tập đó, thì chúng ta phải biết rất rõ những cái pháp nào đặt ở trên bốn cái chỗ này mà tu tập.
Trước tiên thì chúng ta nên theo cái bảng tóm lược của Tứ Niệm Xứ. Nghĩa là nó tóm lược lại, chứ Tứ Niệm Xứ nó rộng rãi lắm, nó mênh mông lắm, bốn cái chỗ này chớ mỗi một cái chỗ nói ra nó rất nhiều.
Cho nên chúng ta phải theo cái bảng tóm lược, để rồi từ cái chỗ tóm lược đó, chúng ta mới giãn ra từng cái phần một, và mỗi một phần đó nó sẽ sử dụng cái pháp gì ở trên cái phần đó để tu tập.
Cho nên càng giãn ra thì Thầy e rằng các thầy và cũng như là các con hơi rối trí. Nhưng nhớ kỹ những gì mà Thầy dặn, đừng có nên mà để cái tâm, nghe để mà hiểu biết Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì từ lâu tới giờ Thầy không muốn giảng Tứ Niệm Xứ, là vì cái Tứ Niệm Xứ là cái nơi mà để chúng ta đem các pháp đến đó, mà để chúng ta gọt rửa, trau dồi, làm cho bốn cái chỗ này thanh tịnh. Cho nên nó phải có những cái chi tiết của nó ở trong đó. Thân, thọ, tâm, pháp, nó có những cái chi tiết của nó trong đó rất là lớn. Mỗi cái chi tiết nó phải thực hiện như thế nào, chớ không phải là đơn sơ đâu.
Để nhận xét phải tu chỗ nào trước, chỗ nào sau, pháp nào trước, pháp nào sau. Nghĩa là chúng ta phải tóm lược cái bảng này, để rồi từ cái chi tiết đó, chúng ta mới đặt. Bây giờ muốn tu cái chi tiết chỗ này của Tứ Niệm Xứ nè, thì phải tu như thế nào?
(16:22) Bởi vì trong cái, thí dụ như bây giờ, trên cái thân nó đâu có, nó là tổng quát nói cái thân, nhưng mà cái thân hành nó khác, mà cái thân cái nhân tướng của nó khác, mà cái hành tướng nó khác, rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, rồi vừa hành tướng nội vừa hành tướng ngoại, nó nhiều cái việc ở trong đó lắm.
Cho nên nó không thể đơn giản được. Vì vậy mà giảng về cái thân, rồi cái thọ, rồi cái tâm, rồi cái pháp, mà cái nào nó cũng nhiều như vậy hết thì thử hỏi, nếu mà đem ra giảng sơ sơ thì chúng ta không thấy lối đâu. Mà chúng ta phải giảng từng cái, rồi từng cái định chúng ta đặt trên đó, rồi chúng ta phải tu như thế nào để cho nó phù hợp, để cho nó đúng cách.
Đó là cái phần giáo đầu cho cái Tứ Niệm Xứ hôm nay. Và cái phần mà đi vào chi tiết để Thầy sẽ, bởi vì sau khi nó sẽ trở thành, viết thành một cái cuốn sách, cái pháp tu nó in ra thành sách, để sau này, cái này thì khi mà in ra rồi, như Thầy giảng ở trong này thì các con thấy rằng, cái lời nói của Thầy thì nó có hơi đụng chạm với các ngài.
Nhưng mà khi viết nó thành sách thì không có đụng chạm ai hết. Nghĩa là trên bốn lãnh vực này làm cho nó thanh tịnh. Cho nên cuốn sách này chúng ta có thể xin phép ở đâu cũng được.
Nhưng dù có muốn xin phép như thế nào, thì chắc chắn là Thầy cũng gởi cho Chánh Trực, cho Chánh Đức, là vì có cái sự quen thân, có sự quen biết rồi. Từ cái cuốn đầu tiên được cái giấy phép cho đến những cái cuốn kế sau đó, nó khỏi mình phải đi lòng vòng chỗ này chỗ kia, rồi phải…
Bởi vì đời nó không có đơn giản. Muốn làm cho nên việc cái gì đó, thì tức là phải có quà biếu hay hoặc là có cái này kia, chớ khi không người ta không làm cho mình được đâu. Và cái chỗ nào mà nó đã quen rồi thì nó dễ hơn. Và đồng thời người ta cũng thấy rằng cái sách của mình nó không có ảnh hưởng chính trị, cho nên người ta thấy đó là một cái đường xây dựng tốt cho Phật pháp, cũng là một cái điều nêu lên để rõ ràng cho pháp tu.
Chánh Đức thì cũng quen thân được thì từ cái tác phẩm thứ nhất xin phép được, cho đến những cái tác phẩm thứ hai, thứ ba thì chắc chắn là trên cái vấn đề mà xin phép thì Thầy giao cho Chánh Đức sau này.
Thì đây là những cái điều kiện mà Thầy viết ra, nhưng mà cái tài liệu viết ra đây được thì Thầy cũng in một số ít, phát cho quý thầy trong nội bộ của mình biết để mà tu tập. Cho nên cái bảng tóm lược này và sau cái bảng tóm lược này thì chúng ta sẽ giảng từng chi tiết của nó.
(18:53) Cái bảng tóm lược thứ nhất là về cái bài pháp Tứ Niệm Xứ này, thì trước tiên là về cái mục lục của nó, thì chúng ta cũng phải cho cái lời tựa để giới thiệu về bốn cái lĩnh vực này. Thì cái chương thứ nhất của nó, thì nó nói về bốn cái lĩnh vực quan trọng, tức là bốn cái nơi quan trọng này.
Tức là cái đề mục của cái chương thứ nhất là bốn cái lĩnh vực quan trọng, chớ nó không nói Tứ Niệm Xứ, mà nó nói bốn lĩnh vực quan trọng, nó rất quan trọng cho cái cuộc đời tu tập của chúng ta.
Cái tiểu mục của nó trong bốn lĩnh vực này, thì cái tiểu mục của nó là bốn cái chỗ thường sanh đau khổ của kiếp người.
(19:39) Nghĩa là mình nêu lên cái thân nó sẽ sanh đau khổ gì, cái tâm nó sanh đau khổ gì, cái thọ nó đem đến cái đau khổ gì, và các pháp nó đem đến đau khổ gì cho chúng ta.
Đó thì, mình muốn biết rõ được bốn cái lĩnh vực này nó quan trọng đến cái mức độ nào cho cái cuộc đời tu hành, thì chúng ta phải biết cái khổ của nó trước tiên, để rồi chúng ta mới tu tập làm cho bốn cái chỗ này nó thanh tịnh, nó không còn khổ đau nữa.
Cho nên đem bốn cái chỗ này ra để mà chúng ta nói, thấy cho rõ, phân tích cho rõ ràng, để chúng ta thấy được cái khổ của cái thân như thế nào, rồi cái tâm như thế nào, rồi các cái cảm thọ của chúng ta đối với thân, thọ, tâm, pháp, của chúng ta. Rồi các pháp ở ngoài nó đánh đập vào, nó xâm chiếm vào, nó làm cho chúng ta, vì các pháp nó làm cho chúng ta dễ phiền não, sân hận, sợ hãi, lo lắng, buồn phiền, thương ghét, nhớ mong đủ cách, thì các pháp nó đến với chúng ta.
Bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ nó đem đến cái đau khổ của kiếp người. Chúng ta vạch cho họ thấy từng cái chỗ đau khổ của bốn cái chỗ này, cho ai cũng thấy cho rõ ràng.
Thì trong bốn cái chỗ này nó phải có cái nhân tướng của nó, rồi nó phải có cái hành tướng của nó, rồi nó có cái đặc tướng của nó.
Thì cái nhân tướng của nó, do cái thân nó có cái nhân tướng, do cái tâm nó có nhân tướng, do cái thọ có nhân tướng của thọ, do các pháp có nhân tướng của các pháp.
Rồi trong những cái nhân tướng của thân, thọ, tâm, pháp đó, thì nó có cái hành tướng của thân, thọ, tâm, pháp của hành tướng. Rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, rồi cái hành tướng nội và ngoại đồng thời luôn.
Thì trong mỗi một cái tiểu mục như vậy, nói về hành tướng của nó thì chúng ta cũng phải nói tất cả những cái hoạt động. Nói về hành thì tức là nói về hoạt động. Còn nói về cái nhân tướng, tức là nói cái tướng của nó, cái tướng trạng của nó, để chúng ta hiểu biết được cái tướng trạng của nó.
Như bây giờ nói về thân tướng của chúng ta, thì cái thân của chúng ta nó phải có những cái bộ phận nào bộ phận nào, nó kết hợp lại nó mới thành ra cái thân.
(21:49) Cho nên muốn nói về cái nhân tướng thì đầu tiên chúng ta phải thấy Ngũ Uẩn, mà nói xa hơn nữa thì chúng ta phải thấy Thập Nhị Nhân Duyên.
Thì các thầy thấy, bây giờ nội cái nhân tướng không, thì phải giải thích cho các thầy thấy Ngũ Uẩn như thế nào, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức như thế nào, nó kết hợp lại nó mới thành cái nhân tướng của quý thầy.
Thì trong cái nhân tướng của một thầy, thì nó phải có năm cái uẩn này, mà năm cái uẩn này, thì nói về Sắc Uẩn, thì nó do một cái sự kết hợp của tứ đại. Cái Sắc Uẩn là cái thân của chúng ta nó do kết hợp của tứ đại.
Cho nên nó đi ra từng phần, từng phần như vậy, thì quý thầy biết rằng khi mà giảng về Tứ Niệm Xứ nó phải chỉ cho rõ.
Và do cái sự kết hợp của tứ đại thì nó, nếu mà thiếu tiếp nhận vào cái tứ đại bên ngoài, tứ đại bên trong này nó sẽ sanh ra đau khổ. Cho nên nó bốn chỗ thường sanh đau khổ mà.
Mà cái nhân tướng của sắc thân của chúng ta là cái tứ đại, mà khi mà ở trong này nó thiếu đất, nó không có tiếp nhận đất vô, thì do cái đất ở trong này nó thiếu thì nó sanh ra bệnh, mà nó thiếu lửa thì nó cũng sanh ra bệnh, mà nó thiếu gió nó cũng sanh ra bệnh, mà nó thiếu nước nó cũng sanh ra bệnh.
Cho nên đó là cái nỗi khổ của người mang thân tứ đại mà họ không thấy. Ai cũng tưởng là cái thân tứ đại ngon lành lắm, nhưng mà thử không ăn, không uống thử coi, nó có ngon lành không? Nó nằm, nó đi không nổi chớ ở đó ngon lành.
Rồi cái hành tướng của nó, nó hành tướng đúng thì không nói gì, nó làm cho mình an ổn. Mà hành hướng sai, chúng đánh chúng đập mình đó. Cũng như hồi còn nhỏ mà đi hái trộm mận người ta thì người ta chửi mắng, người ta đánh mình, thì không phải là cái hành tướng đó sai hay sao?
Cho nên những cái hành tướng, nhiều cái hành tướng mà đem đến những cái khổ. Chúng ta coi chừng, một cái háy (mắt) của mình đối với người khác là họ cũng thấy ghét mình rồi đó. Thì như vậy là cái hành tướng của mình nó sẽ đem đến cái nỗi khổ.
Trong cái quá trình nhân quả, Thầy cũng sẽ diễn tả. Ở trong cái lộ trình, cái đường đi của nhân quả, nó đều do những cái hành động thân, khẩu, ý của nó. Thì ở đây cái hành tướng của chúng ta nó sẽ nằm ở trong thân này, nó cũng có ba cái chỗ hành tướng của nó, mới tạo ra được cái nhân quả, từ đó mà chúng ta giảng ra, thì tức là chúng ta sẽ thấy rất rõ ràng và cụ thể.
Rồi cái đặc tướng, đặc tướng là cái cá nhân riêng của mỗi người. Mỗi người nó có cái riêng biệt nhau chớ nó không giống nhau, cũng như cái gương mặt người này nhìn với người kia không giống nhau.
Ở đây chúng ta thấy, mười mấy người nè, nhìn coi có cái mặt người nào giống người nào không? Tự nhiên, người nào cũng khác. Cho nên, cái đặc tướng đó nó không thể nào người nào giống nhau.
Rồi cái tâm của chúng ta nó cũng vậy, nó không có người nào giống nhau người nào hết.
Cho nên ở đây nói về cái phần, giới thiệu về cái phần này thì tức là nó phải viết thành ra một cái bài để cho người ta đọc, người ta hiểu rất rõ ràng và cụ thể.
(24:44) Cho nên nếu mà nói về Tứ Niệm Xứ mà dạy thì đây là cả một cái công trình, viết ra thành sách cũng cả một công trình.
Bây giờ là chương một rồi đó. Thì cái chương hai thì chúng ta dạy về cái phần tu tập. Cái chương một thì chúng ta nói bốn lãnh vực và cái bốn chỗ thường sanh đau khổ, mà diễn tả từ cái nhân tướng, đặc tướng và hành tướng của nó để biết cái chỗ mà nó đưa đến những cái đau khổ cho chúng ta.
Thì nó đưa đến những cái đau khổ thì như hồi nãy Thầy nói, thì qua những cái hành và cái đặc tướng, và cái nhân tướng của nó, nó sẽ đưa tất cả những cái nhân quả của chúng ta, tức là thân khẩu ý chúng ta tạo nên những cái nhân quả mà diễn biến cho cuộc tái sinh luân hồi của chúng ta, là cái phần trong chương một. Nó làm chúng ta mãi mãi sống trong cái vòng tròn đau khổ mà không bao giờ chúng ta thoát ra khỏi.
Cho nên hầu như là cái chương một, chúng ta tới chừng mà kết luận nó đó, thì chúng ta nhấn mạnh vào ở chỗ cái nhân quả, cái hành động hằng ngày chúng ta nói nè, suy nghĩ nè, rồi thân của chúng ta làm cái này làm cái kia để đưa đi đến cái chỗ mà chúng ta đau khổ. Cho nên bốn chỗ này thường sinh đau khổ kiếp người mà. Cho nên chúng ta phải nói về nhân quả.
Đây là nói về một phần nhỏ nhân quả, nếu mà dạy, nếu mà viết thành một cái giáo trình đạo đức nhân quả thì nó cũng có một phần ở trong này mà thôi, chớ còn cái giáo trình nhân quả nó còn nhiều cái đường đi nước bước của nó ở trong cái nhân tướng, hành tướng và đặc tướng này chớ không phải là không có.
Nhưng mà ở đây thì mình tóm lược theo bốn cái lĩnh vực quan trọng này để nói cái khổ của nó mà thôi. Chứ sau khi mà viết cái giáo trình nhân quả để nó biến thành một cái đạo đức của đạo Phật để cho người ta hiểu biết, thì nó lại còn, trong cái nhân tướng, hành tướng và đặc tướng này, thì nó là cái lộ trình, cái đường đi của nhân quả.
Cho nên chúng ta viết rất kỹ về cái đạo đức này. Còn bây giờ chúng ta chỉ tóm lược để biết cho nó là bốn cái chỗ thường sanh đau khổ của kiếp người mà thôi.
(26:56) Chương hai thì trên thân quán thân tu về nhân tướng. Bây giờ cái phần tu. Bởi vì trong cái Tứ Niệm Xứ, Phật nói trên thân quán thân tu về nhân tướng.
Vậy thì tu về nhân tướng thì như thế nào? Đây là cái mục lớn của nó đó, cái chương hai, thì cái đề mục lớn của nó. Vậy thì trên cái nhân tướng như thế nào.
Cái mục nhỏ của nó là nhân tướng ngoại, nhân tướng ở bên ngoài, cũng như bây giờ da nè, rồi lông nè, rồi móng tay, móng chân nè, rồi mắt nè, mũi, miệng mình nè, tất cả những mọi cái phần mà ở bên ngoài thân của mình đó, là nhân tướng ngoại.
Bây giờ nhân tướng nội thì tim, gan, phèo, phổi, ruột, mật, tất cả những cái phần ở bên trong gọi là nhân tướng nội. Rồi nhân tướng nội và ngoại, nghĩa là vừa bên trong mà vừa bên ngoài nữa.
Đó thì như vậy là mình ở trên thân quán thân tu về nhân tướng, thì nó thuộc về cái loại định nào mà để đưa vào ở trên chỗ này mà tu cái này?
Đó thì như vậy là chúng ta cũng đã biết rằng nếu mà tu ở về cái nhân tướng ngoại, nhân tướng nội và cái nhân tướng nội ngoại này thì nó chỉ có cái Định Vô Lậu mới đặt ở trên này mà tu. Do cái Định Vô Lậu đó cho nên chúng ta mới quán xét cái tướng ngoại của nó như thế nào, cái nhân tướng nội như thế nào và cái nhân tướng nội ngoại như thế nào?
Vì quán xét chúng ta mới thấu suốt được cái nhân tướng của nó. Do đó chúng ta thấu suốt thì chúng ta thấy cái nhân tướng nội, nhân tướng ngoại và nhân tướng nội ngoại này nó không có cái gì là tồn tại là vĩnh viễn. Nó là bất tịnh, nó là hôi thúi, nó là như thế này thế khác, đủ thứ làm uế trược.
Mà khi mà giảng rồi thì chúng ta suy nghĩ, lời của Phật dạy rất đúng, không có sai. Cho nên cái này là cái Định Vô Lậu. Nó làm cho chúng ta không còn chấp đắm, nó không còn dính mắc ở trong cái thân của chúng ta.
Coi nó, từ lâu chúng ta xem nó, cái thân của chúng ta như cái ngã, cho nên khi mà chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét cái này rồi thì chúng ta thấy cái thân mình, thôi thấy gớm quá rồi, không có còn chấp nó là cái ngã rồi.
Cho nên chúng ta chấp nó cái ngã như thế nào? Ôi thôi nó hơi nhức đầu là chúng ta đã hoảng sợ rồi. Nó hơi đau cái gì là chúng ta lo cho nó quá chừng rồi, sợ nó chết đi uổng! Đó cho nên nó muốn cái gì, rồi nó muốn ăn cái gì đó chúng ta đem cho nó ăn, sợ nó ốm, ăn cái gì mà coi bộ không cái bổ thì sợ nó mất sức!
(29:36) Chúng ta thương cái thân quá độ, chấp cái thân của chúng ta quá lớn. Cho nên khi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, đặt cái niệm Định Vô Lậu ngay trên chỗ mà nhân tướng nội, nhân tướng ngoại rồi nhân tướng nội ngoại này mà chúng ta quán xét, thì chúng ta không còn chấp cái thân là cái ngã nữa.
Mà cũng không thấy cái thân là của mình nữa. Nó là của ai đâu á, nó ở xứ nào đâu á, nó do một cái nhân quả nó kết hợp lại, nó tạo thành cái nhân duyên hợp lại, gọi là cái thân là của mình, chớ sự thật ra nó không phải là của mình gì hết.
Cho nên vì cái chỗ tu tập Vô Lậu mình mới thấu suốt được, do cái chỗ mà trên Tứ Niệm Tứ này quán xét được, nhờ cái Định Vô Lậu mà quán xét, nó làm cho mình thấy nó rõ ràng cụ thể, nó không còn mờ mịt mà chấp cái thân này là của mình, chấp cái thân này là cái ngã của mình, mình không còn chấp nữa, mình mới thấy là đúng.
(30:25) Bây giờ về cái phần thứ tư thì trên thân quán thân tu về hành tướng, hồi nãy là nhân tướng, bây giờ về hành tướng. Vậy thì về cái hành tướng của nó, thì nó có những cái hành tướng nội và hành tướng ngoại, và hành tướng nội ngoại.
Về hành tướng ngoại là cái động dụng cái thân mình đi tới, đi lui, mang y, mặc bát đó, là hành tướng ngoại. Làm công việc này, làm công việc kia, là hành tướng ngoại.
Vậy thì cái hành tướng ngoại này, trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại này là cái định gì? Bởi vì nhiều khi cái hành động này nó đem đến cho chúng ta những cái nhân quả ác nè, những nhân quả thiện nè.
Mà hành động này phải tập cái định gì để cho nó tỉnh thức nè, không có làm những điều ác nè, cho nên nó dứt được cái thân hành này, nó làm cho cái thân của chúng ta thanh tịnh, nó không có ác pháp ở trên đó, cho nên chúng ta tu cái định gì?
Cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nó theo dõi từng cái hành động nó. Hành động nó bây giờ, nó đi nó đạp chết một con kiến, à chúng ta biết đây là cái hành động sai, không đúng, hành động ngoại này là có ác, vô ý. Từ đây về sau có ý không được đạp chết côn trùng nữa, đó là hành động không từ bi, không biết thương sự đau khổ, sự chết chóc của chúng sanh.
Cho nên từ đó chúng ta có những cái ý tứ từng cái bước đi, từng cái hành động, làm chúng ta tỉnh thức ở trong mọi cái thiện pháp, mà không có để vô ý để mà xảy ra ác pháp, đó. Thì đó là hành tướng ngoại.
(31:49) Và bây giờ về cái hành tướng nội thì tu cái định gì? Hành tướng nội, thì hơi thở thở ra, thở vô, đó là cái động dụng bên trong thân của chúng ta mà, do vì vậy mà chúng ta biết đó là Định Niệm Hơi Thở. Phải không. Thì ở ngoài thì Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, trong thì hành tướng nội, thì nó là Định Niệm Hơi Thở.
Mà như là mình hồi nãy là mình đã áp dụng cho cái Tứ Chánh Cần, từ cái Định Vô Lậu là trên thân quán thân tu về nhân tướng, nó là Định Vô Lậu để đoạn dứt các ác pháp.
Rồi từ bây giờ mình mới tiến tới là hành tướng ngoại, hành tướng nội, thì rõ ràng là cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác và cái Định Niệm Hơi Thở, làm cho chúng ta ngăn chặn không có cho các ác pháp sanh khởi. Thấy rõ ràng chưa.
Rồi bây giờ hành tướng nội và hành tướng ngoại, chúng ta kết hợp luôn cả hai cái hành động này để trở thành một sức tỉnh thức vô cùng, làm chúng ta đạt được cái kết quả cụ thể cho cái sức tỉnh thức.
Đó thì chúng ta thấy, trên những cái phần mà đơn sơ, Thầy ở đây chưa có giải thích cho nó cụ thể ra, nhưng mà phải nói tóm lược, khái lược để chúng ta thấy được cái phần mà chúng ta tu tập từng phần, từng phần đó. Mà mỗi cái phần nó đều có một cái định nó xác định ở trên đó.
Mà nãy giờ chúng ta chỉ nói về trên thân quán thân, chớ chưa có nói về trên thọ quán thọ, rồi trên tâm quán tâm, rồi trên pháp quán pháp, thì thử hỏi bây giờ mỗi cái như vậy, nó bao nhiêu cái chuyện mà chúng ta phải nói ở đây? Chúng ta phải viết ở đây, biết bao nhiêu giấy mà để viết, biết bao nhiêu điều để nói đây?
(33:23) Bây giờ trên hành tướng nội và ngoại xong rồi, thì bắt đầu bây giờ trên thân quán thân tu về đặc tướng cũng trên cái thân này, quán cái thân tu về đặc tướng.
Vậy thi bây giờ chúng ta nhiếp thở hơi thở, mà chúng ta tu về Định Niệm Hơi Thở, mà chúng ta thấy sao mình hít thở như vậy nó mệt quá đi, như vậy là cái đặc tướng của mình nó không được, mình phải thay đổi ngay liền.
Mình thay đổi thì nó nghe nó an lạc, à như vậy là cái hơi thở mình phải thở như vậy nó mới được. Tức là mình thở dài quá nó mệt, hay hoặc là mình thở ngắn quá nghe nó tức tối quá, nó làm cho mình khổ sở.
Cho nên ngay cái đạo Phật thì phải có sự giải thoát hoàn toàn mà không có sự giải thoát tức là mình đã tu sai. Cho nên dựa theo cái đặc tướng này mà biết chúng ta áp dụng trong Phật pháp sai hay là đúng.
Ngồi lại thiền tu, đi kinh hành tu mà chúng ta thấy có sự an lạc giải thoát thì đúng pháp, mà không có sự an lạc giải thoát mà ngồi lại đau nhức khổ sở, thì tức là tu sai, chúng ta tu sai. Bởi vì cái phần thân của chúng ta nó ngồi kiết già mà nó đau nhức, nó sai nó làm chúng ta bị lệch lạc nè.
Rồi về cái tâm nó cũng vậy, nó có những cái sai của nó. Mà chúng ta sai là nó sẽ có những cái rối loạn nó làm cho chúng ta khó chịu, làm chúng ta khổ sở, nó không có sự giải thoát, không có sự an lành, thì tức là chúng ta đã tu sai. Cho nên dựa trên cái thân, trên thân quán thân tu về đặc tướng thì chúng ta phải rõ.
(34:52) Bây giờ về chương ba. Chương ba thì trên thọ quán thọ tu về nhân tướng của thọ. Cho nên cái nhân tướng là cái tướng của thọ. Cái thọ có tướng chớ đâu phải không tướng. Cho nên cái tướng của nó như thế nào?
Thì như vậy là chúng ta sẽ nói lên cái tướng của nó, để cho quý thầy biết cái tướng của nó, thì cái đó là nhân tướng nội rồi nhân tướng ngoại của cái thọ.
Bởi vì nói, trong đạo Phật có nói nhân tướng, đặc tướng và hành tướng thì cái thọ nó có hành, nó có nhân tướng của nó, nó có hành tướng của nó, rồi nó có đặc tướng của nó chớ, đâu có phải riêng.
Cho nên trong cái bước đường mà tu về cái thọ, trên thân mà quán thọ tu về nhân tướng của nó, thì chúng ta tu cái định gì? Vậy thì trong khi mà chúng ta tu về nhân tướng của cái thọ thì chúng ta phải tu cái định nào mà để mà phá cái thọ đây?
Đâu có phải mà chúng ta tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, đâu có phải tu cái Định Vô Lậu được, mà chúng ta phải tu Tam Thiền. Chúng ta phải đặt cái Tam Thiền ở trên cái thọ để mà chúng ta tu, bởi vì nơi Tam Thiền chúng ta mới xả thọ được chớ.
Mà tiến tới để mà xả cái thọ, thì tức là chúng ta phải ly tất cả các cái trạng thái hỷ tưởng. Cho nên khi mà ly tất cả trạng thái hỷ tưởng, thì chúng ta ly nó được xong thì chúng ta mới nhập Tam Thiền, từ đó chúng ta mới tu ở trên cái thọ. Nghĩa là trên bước đường mà chúng ta đạt được cái trạng thái của Tam Thiền, thì bắt đầu từ đó chúng ta mới xả được cái thọ.
Mà xả được cái thọ thì từ cái nhân tướng của thọ, nhân tướng nội, nhân tướng ngoại, rồi nhân tướng nội ngoại của thọ, thường thường là lúc này nó sẽ đánh chúng ta rất nhiều, nó cản đường không cho chúng ta nhập. Từ cái đoạn đường của Tam Thiền đi đến Tứ Thiền, thì cái đoạn đường này chúng ta sẽ bị cái thọ đánh chúng ta rất lớn.
(36:53) Cho nên chúng ta phải đặt ngay từ ở trên đó là những cái thiền định nào? Thì bây giờ phải đặt nó là từ Tam Thiền cho đến Tứ Thiền. Thì cái quãng đường mà Tam Thiền, Tứ Thiền này là chúng ta tu về cái tướng nội và tướng ngoại. Chớ đâu có phải đặt cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở chỗ này được.
Cho nên nếu mà không xác định được cái này thì đương nhiên chúng ta chưa nói trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu. Bây giờ nó đau quá chúng tôi phải khổ sở chớ, phải ưu phiền chớ, làm sao mà cho nó hết được cái ưu phiền được? Nó nhức quá rồi, chúng tôi phải khổ sở rồi. Thế cho nên tham ưu, chúng tôi phải ưu phiền rồi, chớ làm sao mà chúng tôi hết ưu phiền được.
Cho nên vì vậy mà chúng ta phải làm sao khắc phục được cái thọ này? Thì do đó cái nhân tướng của nó, phải khắc phục được cái nhân tướng của thọ nè, cái ngoại tướng của thọ nè, cái nội ngoại của cái tướng của thọ.
Chúng ta phải tu tập từ cái Tam Thiền đến Tứ Thiền để chúng ta phá cho sạch cái thọ, cho nên chúng ta làm chủ cái cảm giác đau đớn. Cho nên Thầy nói ở Tứ Thiền, cái trạng thái vắng lặng mà đạt được, thì từng đó chúng ta mới có thể phá được cái thọ, mới làm chủ được cái bệnh.
Đó như vậy là các thầy cũng đã biết được, hôm nay chúng ta đứng trên Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân, chúng ta phải tu tất cả những định gì? Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nè, Định Vô Lậu nè, phải không, cái Định Niệm Hơi Thở nè. Nhưng mà trên thọ quán thọ còn tu cái đó nữa không? Lại tu từ Tam Thiền đến Tứ Thiền.
Đó thì, mỗi một cái trong bốn cái trụ xứ này, mà chúng ta phải đặt cái pháp đúng, thì chúng ta mới giải quyết được nó.
Chớ còn nếu mà không đặt đúng cái pháp, như bây giờ trên thọ quán thọ mà đem Tịnh Độ lên đó mà ngồi mà niệm Phật, thì thử hỏi làm sao mà đạt được cái kết quả này? Mà trên thọ mà muốn diệt cái thọ này không còn làm chủ, mà đem ông Phật Tánh ngồi lên trên này, thì thử hỏi ở đây thì làm sao mà dẹp được cái thọ? Nó làm sao đúng cái chỗ nó!
Cũng như thầy nói bây giờ mình đem nước, xà bông với cái bàn chải để mình rửa cái sàn nhà này, mà mình lấy tấm thảm mình trải lên thì làm sao cái sàn nhà này sạch? Cái ví dụ để cho chúng ta thấy rõ.
Cho nên trên nhân tướng, chúng ta tu cái nhân tướng rồi thì bây giờ chúng ta phải tu cái hành tướng, hành tướng của thọ.
Hành tướng của thọ rõ ràng là, từ cái chỗ chân này, nó nhức nó kéo tới cái đầu của mình, rồi từ cái đầu này nó đau nó kéo xuống cái chân, nó chạy bên đây, nó đau nó nhói bên kia. Thì đó cái hành tướng nó chạy qua chạy lại. Có khi nó đau chỗ này, có khi đau chỗ khác, có khi đau cái phổi, có khi đau cái gan, khi đau cái ruột, nó đau tùm lum đủ thứ hết.
Đó là những cái thọ mà cái hành tướng là cái chỗ nó đang di chuyển từ cái bệnh này, cũng chẳng hạn bây giờ như chúng ta đau gan nè, chúng ta đi uống thuốc, hết đau gan, nó về đau tim, thế bây giờ uống thuốc tim, nó hết đau tim cái nó nhảy qua nó đau bàng quang, ruột của chúng ta. Nó đau cái này nó đau cái kia, nó không bao giờ dừng cái thọ, cái tướng mà nó đi, nó từ cái chỗ này nó đi đến cái chỗ khác, nó di chuyển như vậy.
(39:57) Như vậy là chúng ta phải biết cái hành tướng của nó để mà chúng ta chặn đứng tất cả những bệnh trạng, cái thọ của nó, nó không có đi tầm bậy nữa.
Cho nên vì vậy đó, khi mà nó nhảy đi đến cái chỗ này, bây giờ chúng ta ngồi đây nè, nó đau hai cái chân nè. Đó, bây giờ chúng ta tập trung, nó căng cái đầu nè. Thì bây giờ muốn cho cái chân nó đừng đau nè, cái đầu nó đừng nhức nè, thì chúng ta phải dùng những cái pháp, cái định như thế nào?
Và cái định đó nó phải ở trạng thái nào để mà chúng ta đẩy lùi tất cả những cái hành động của thọ, cho nên mới làm chủ được cái thọ chớ? Mà đặt đúng pháp thì chúng ta sẽ thành tựu được. Cho nên ở đây chúng ta đặt cái giai đoạn từ cái Tam Thiền cho đến cái giai đoạn đến Tứ Thiền để chúng ta phá thọ.
Đó thì cái tướng, hành tướng nội và hành tướng ngoại của thọ, đau bên ngoài rồi đau bên trong. Thí dụ như bây giờ ngoài da mình nó ngứa ngáy thì nó là hành tướng ngoại. Vậy thì hành tướng ngoại mình phải dùng cái pháp nào để làm cho cái hành tướng ngoại này, cái thọ hành tướng ngoại này nó sẽ dứt? Rồi cái hành tướng nội, nó phải làm sao cho dứt?
Tất cả những cái này là những cái mà luyện tập để làm chủ được cái đau khổ cái thọ của chúng ta. Rồi bây giờ trên cái thọ của chúng ta, chúng ta đâu có phải mà tu về nhân tướng và hành tướng nó như vậy là đủ, mà còn tu về cái đặc tướng của nó nữa.
Có người thì họ bịnh cái này cái nọ kia, nhưng mà có người lại không có cái bịnh đó, mà ta lại có mang cái bịnh đó. Nó có những cái bịnh đặc biệt, ngoài ra những cái thọ khác nó không giống nhau. Cho nên chúng ta gặp những cái trường hợp đó chúng ta phải dùng cái pháp để mà phá cái thọ đó luôn, chớ không có để.
(41:35) Đó là cái chương ba, nó nói về cái thọ. Bây giờ tới chương tư, trên tâm quán tâm tu về nhân tướng của tâm.
Vậy thì cái tâm của chúng ta nó nhiều cái tướng, cái tướng tâm của chúng ta, cái tướng nội, tướng ngoại, rồi tướng nội và ngoại nó kết hợp. Thì do đó chúng ta phải thực hiện trong cái nhân tướng, hành tướng và cái hành tướng nội và hành tướng ngoại của nó.
Từ cái nhân tướng cho đến những cái hành tướng, chúng ta đều phải hiểu cái tâm của mình như thế nào? Mà đặt về cái tu về cái nhân tướng của tâm này, để mà làm chủ cho nó, nhất là những cái hành tướng nội và hành tướng ngoại của cái tâm này, thì chúng ta sẽ tu, đặt cái thiền gì tu cái này?
Đó, chúng ta sẽ đặt cái thiền gì mà tu nó ở trên này? Bây giờ chúng ta phải đặt Nhị Thiền ở trên cái chỗ mà quán tâm. Bởi vì chỉ có Nhị Thiền nó mới dừng những cái tâm lăng xăng của chúng ta thôi, chớ còn ngoài cái Nhị Thiền này thì làm sao mà chúng ta đứt được cái tâm lăng xăng.
Cho nên chúng ta lấy Tam Thiền mà đặt cái chỗ này, thì Tam Thiền nó chỉ có cái nước là phá thọ, ly hỷ, trú xả, phá thọ thôi, chớ nó đâu có ở cái chỗ này mà nó tịnh chỉ Tầm Tứ đâu.
Cho nên cái nhân tướng nội, nhân tướng ngoại và nội ngoại của nó và hành tướng nội, hành tướng ngoại của cái tâm, thì nó chỉ nằm ở trên cái Nhị Thiền mà nó có những cái tướng này. Cho nên chúng ta phải đặt cái Nhị Thiền ở trên đó mà chúng ta thực hiện cái quán diệt tầm.
Đây là cái phần chương bốn, trên tâm quán tâm tu về nhân tướng, rồi hành tướng, rồi đặc tướng của nó. Đó. Thì như vậy là chúng ta sẽ thấy rằng trên cái bước đường mà tu tập, chúng ta biết đặt cái định nào ở trên cái chỗ đó để mà chúng ta tu.
Bây giờ chúng ta ly hỷ trú xả (ly dục ly ác pháp) chúng ta nhập cái Sơ Thiền rồi, tức là chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần rồi, tức là lìa ác mà tăng trưởng thiện rồi. Bây giờ chúng ta mới tiếp tục tới cái định Nhị Thiền, thì tâm chúng ta coi vậy chớ nó đâu có nằm yên đâu, cho nên chúng ta phải tịnh chỉ Tầm Tứ.
Do tịnh chỉ Tầm Tứ đó thì chúng ta phải tu trên nhân tướng nó, nội tướng, rồi hành tướng nó, hành tướng nội, hành tướng ngoại nó, đó. Chúng ta phải biết được những cái động dụng của nó để rồi chúng ta tịnh chỉ nó.
Đó là cái phần thuộc về tâm. Mà sau này giải thích về những cái tâm của chúng ta, mỗi một cái niệm tâm nó khởi lên, nó đưa đến chúng ta có những cái đúng cái sai, rồi có những cái tưởng của nó nữa. Bởi vì thuộc về tâm thì nó nằm ở trong cái tưởng thức nữa, cho nên nó có nhiều cái tưởng của nó, cho nên gọi là vọng tưởng.
(44:36) Chương năm thì trên pháp quán pháp tu về nhân tướng các pháp. Nhân tướng ngoại nè, nhân tướng nội của các pháp nè, rồi nhân tướng nội ngoại nè. Rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, hành tướng nội ngoại. Rồi trên pháp, quán tu về đặc tướng của nó nữa.
Thì các pháp đây là nói về vạn hữu, tất cả mọi vật xung quanh chúng ta là các pháp, từ cái nhà, cái cửa, cái bàn cái ghế, cũng đều là các pháp. Mỗi một cái pháp mà nó làm cho tâm chúng ta không lìa ra được, thì nó đem lại nỗi đau khổ của chúng ta.
Cho nên cái này sẽ đặt pháp nào tu trên này đây? Định nào mà tu ở trên các pháp đây? Để cho nó lìa xa đây? Thì cái này, cái mà Tứ Niệm Xứ mà trên pháp quán pháp này, để mà cho làm chủ được các pháp này, thì chúng ta phải tu tập Tam Minh, lấy Tam Minh đặt trên này mà tu.
Chớ không phải lấy Tứ Thiền đâu. Bởi vì con đường từ Tam Thiền đến Tứ Thiền, nhập được Tứ Thiền thì chúng ta mới hoàn toàn điều khiển được cái thọ, đó là trên thọ quán thọ.
Còn bây giờ, ở trên pháp mà quán pháp, mà tu về các pháp để làm chủ các pháp, thì chỉ có một cái trí tuệ mới làm chủ các pháp, chớ không có cái thiền định nào mà làm chủ các pháp được hết.
Bởi vì pháp đó nó xâm chiếm mình, ngay đó là mình không có làm cho động tâm, dao động tâm mình, đều là do cái trí tuệ vô lậu, thì nó mới đạt được cái trên pháp mà quán pháp.
Cho nên nó đòi hỏi ở chúng ta phải đạt được cái sức định siêu việt, làm chủ được sự sống chết của thân chúng ta rồi, thì chừng đó chúng ta mới phát hiện được Tam Minh, mà Tam Minh chúng ta mới làm chủ được các pháp.
Cho nên chúng ta mới, từ đó chúng ta mới, khi mà chúng ta đạt được cái chỗ mà từ cái phá cái thọ, phá âm thanh, phá cái thọ, chúng ta nhập được cái Tứ Thiền rồi, thì bắt đầu từ chỗ Tứ Thiền đó, chúng ta mới đặt ở trên pháp mà tu các pháp, để làm chủ toàn bộ nó thì chúng ta phát ra.
Bởi vì các pháp nó có cái thời gian quá khứ của các pháp, và cái thời gian hiện tại của các pháp, và cái thời gian tương lai của các pháp. Cho nên lúc bầy giờ chúng ta đạt được Tam Minh thì cái thời gian nó sẽ bị cắt đứt, sẽ không còn có thời gian nữa.
Cho nên trong hiện tại chúng ta dùng pháp hướng…
(Xem tiếp ở Pháp hành 12)
HẾT BĂNG