CK 005A (NAM) - TRIỂN KHAI TRI KIẾN GIẢI THOÁT - ĐỊNH CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC - NHÂN QUẢ THẢO MỘC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Ngày giảng: 11/2005
Thời lượng: [42:09]
(00:00) Tui đâu phải kiến thức thế gian mà bây giờ tri kiến giải thoát chứ không phải kiến thức thế gian, hiểu như vậy thì tui mới nỗ lực tui tu chứ, mấy con hiểu một cách lơ mơ, mặc cảm thì mấy con không tu được đâu, nhớ không? Cho nên mấy con thấy phải hiểu rõ ràng như vậy, cho nên về cái phần mà tu nhiếp tâm thì mấy con thấy rằng cái sức của mấy con theo thầy Chơn Thành thì không nổi đâu, thức như vậy thì không ai nổi đâu, phải không? rất khó.
Vậy thì mấy con phải theo đặc tướng của mình. Thầy bảo mấy con, ví dụ như mình tu tập từ bảy giờ tối cho đến chín giờ thì cứ tu tập từ bảy giờ tối đến chín giờ sau đó Thầy thấy được Thầy tăng lên, chứ mấy con tự tăng lên thì coi chừng đó. Rồi mấy con ở trong thất bật đèn đó rồi ở trong thất rồi cứ ngủ thì chết rồi. Cuối cùng thì cái vấn đề vô lậu làm bài hay dữ tợn mà cái si nó vẫn còn tức là vô minh lậu nó còn chưa diệt mà. Các con thấy ba lậu hoặc mà người ta đưa ra hai pháp để mà người ta diệt ba cái lậu hoặc mà cuộc đời chúng ta vì ba cái lậu hoặc này mà chúng ta khổ đau chứ gì, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Mà cái tri kiến của chúng ta thì nó gánh hết hai cái lậu, còn chỉ có cái Chánh Niệm Tỉnh Giác là nó gánh cái lậu hoặc vô minh lậu mà thôi.
Các con hiểu không? Vô minh nó mới có ngủ, có nghĩ, có ham, ngủ nó làm biếng nó không chiến đấu lại được tức là vô minh lậu, nó mờ mịt. Còn cái dục lậu, hữu lậu là do cái tham sân của nó, cho nên vì vậy mà nhờ cái tri kiến nó quét. Các con thấy Phật pháp nó cụ thể, nó đưa ra những cái pháp mà chúng ta dẹp tham, sân, si chúng ta rất rõ ràng mà dẹp tham, sân, si tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu chứ gì. Nó có ba lậu hoặc đó cho nên nó ba cái thứ đó nó làm cho chúng ta không được bất động tâm, do thấy thì ông Phật cứ nhắc nhở mấy cái đó thôi. Bây giờ, chúng ta có những cái phương pháp, cái cách thức để mà chúng ta đào tạo, rèn luyện để chúng ta tiến tới cái chỗ chúng ta giải thoát hoàn toàn thì như vậy chúng ta chứng quả A La Hán chứ sao, đâu phải là khó khăn, đâu phải ngồi đó bằng cách này, bằng cách kia.
(01:58) Cho nên các con thấy như, mình phải nói rằng như Thiền Minh Sát Tuệ nó phải quán xét tuệ này, tuệ kia, quán xét cái tuệ thì mấy con ngồi đó quán cái kiểu của mấy con thì nó đi đâu? Họ có cho làm bài để mà các con làm viết như vậy không? Hay là các con minh tuệ, minh sát tuệ bằng cái tuệ này, bằng cái sự tư duy, suy nghĩ như vậy, người ta cứ lặp đi, lặp lại những cái tư tưởng mà các con tích tập lại mà các con không triển khai cho đúng cách là sai. Cho nên cái tuệ đó, như vậy là cái tuệ tích tập, tích tập của người khác hơn là trí của mình triển khai.
Còn bây giờ các con đọc đi, cái bài của mấy con viết có giống cái bài của người khác không? Cũng là cái đề tài của nhân quả thảo mộc nhưng mà các đọc lại cái chỗ mà con viết cái bài của các con tư duy suy nghĩ coi, các con viết hai cái bài đó đều là các con viết không sai đề, viết được. Cái ý thì toàn bộ hai người đều viết đúng nhưng mà những cái điều tư duy mấy con không giống nhau. Có đúng không mấy con?
Mấy con thấy hai cái bài so sánh lại đi, chỉ có mấy con chép với nhau thì thôi Thầy đầu hàng phải không? Copy đó, chép nhau đó, người này trao cho người kia, cái bài này hay quá, trao nhau chép thì coi như là mấy con tích tập cái hiểu biết của kẻ khác chứ không phải chính mình. Chứ còn hai người cũng đều là cái đề tài đó, hai người viết thì hai cái bài này nó không giống nhau, cái ý thì giống nhau nhưng mà cái bài thì nó không giống nhau.
Thầy nói thật sự, các con cứ đọc cái bài luận, cái lối văn của ai nó hành văn nấy, cái lối của người ta nghĩ tưởng, có người thì viết cái này trước, có người thì viết cái kia trước, chứ đâu có giống nhau được. Cho nên các con thấy đó là cái khai triển cái tri kiến của chúng ta, cái biết của chúng ta ở trong lòng của chúng ta chứ không phải ở cái tri kiến của người khác. Đó là cái sự học của mấy con chứ, đó là Định Vô Lậu của mấy con, chỗ đó chứ chỗ nào. Nó thực tế như vậy đó thì mấy con biết Đạo Phật nó như thật đó, nó không có mơ hồ đâu, nhờ có sự huấn luyện đào tạo của Thầy mà đào tạo mấy con đến cái chỗ mà vô lậu hoàn toàn tức là cái tri kiến của mấy con phải sáng suốt, soi đâu đúng đó chứ không có soi trật. Còn bây giờ mấy con soi trật, người ta bảo soi vào cái chỗ nhân quả thảo mộc, mấy con soi vào cái nhân quả vũ trụ, trời đất ơi, soi gì dữ vậy, soi ở đây mà không soi, soi đến trên kia. Có phải không?
(04:09) Rồi Thầy bảo mấy con soi vào nhân quả thảo mộc thì mấy con soi vào duyên hợp, sợ lắm. Ai bảo duyên hợp chỗ này, có phải sai không? Các con thấy những cái điều đó là mấy con đang ở trong cái mông lung của mấy con. Cho nên vì vậy mà Thầy xoáy vào những cái chỗ đó để cái ác pháp nó đến là mấy con đập ngay nó liền, nó không trật, nghĩa là búa búa nào cũng trúng chứ không có sai, vì vậy mà mình giải thoát chứ chi.
Các con thấy không? Học hành như Thầy là học thực, tu tập thực, giải thoát thực chứ không phải là nói cái chuyện chơi. Cách thức của mấy con làm là thực đó, chứ không phải nếu mà mấy con ráng, Thầy không có dạy mấy con ngồi thiền nhiều đâu, Thầy dạy mấy con đi nhiều. Phải không? Đi nhiều nó mới phá được cái vô minh lậu còn mấy con mà ngồi nhiều thì nó, vô minh lậu nó chụp cổ mấy con nó đè xuống rồi ngủ. Có không? Thầy nói thật mà. Đó là những kinh nghiệm trải qua cuộc đời tu hành của Thầy mà Thầy nói hôm nay để mấy con thấy rằng Thầy chịu vất vả với mấy con mà mấy con tu không được là phụ ơn Thầy dữ lắm. Thôi bây giờ mấy con xả nghỉ để mà tiếp tục, bữa nay ngày mai thì mấy con, thứ Hai là Thầy sẽ dạy Chánh Ngữ, thứ Ba rồi mấy con sẽ sinh hoạt vào ngày thứ Ba.
(05:26) Để được thì rất khó là vì nhiếp tâm và an trú tâm cho được trong từng phút. Cho nên có nhiều khi chúng ta vội vàng thì chúng ta lại tu cái thời gian quá nhiều thì chúng ta nhiếp phục không được tâm. Cái vấn đề tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác nó coi vậy chứ nó không phải dễ đâu. Nó rất khó tại vì nhiếp tâm và an trú tâm cho được trong từng phút, cho nên có nhiều khi chúng ta vội vàng thì chúng ta lại tu cái thời gian quá nhiều thì chúng ta thì chúng ta nhiếp phục không được tâm và đồng thời thì chúng cũng không an trú được. Và do cái chỗ nhiếp tâm và an trú tâm không được thì chúng ta rất là khó tiến bộ, không có thể đẩy lui được cái hôn trầm, thùy miên. Nhiếp tâm, an trú tâm được tức là không còn bị hôn trầm, thùy miên. Còn nhiếp tâm và an trú tâm không được thì thỉnh thoảng chúng ta lại bị hôn trầm, thùy miên.
Cho nên cái vấn đề tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác là mục đích là chúng ta hết hôn trầm, thùy miên, hết hôn trầm, thùy miên tức là vô minh lậu nó không còn. Mà chính con người vì có tham, sân là do cái chỗ si mà có, mà si có tức là vô minh lậu. Cho nên dục lậu, hữu lậu không có sợ mà người ta rất sợ cái vô minh lậu vì con người khổ đau là do cái chỗ vô minh lậu mà có khổ đau, mình không hiểu cho nên mình mới khổ, còn mình hiểu thì mình không có khổ. Cho nên vì vậy mà có cái định gọi là Định Vô Lậu như chúng ta từng làm những cái bài luận về nhân quả. Thì như vậy trong cuộc sống tu hành của chúng ta, quan trọng là ở chỗ chúng ta phá được cái tâm si của chúng ta.
(07:19) Mà phá cái tâm si thì chúng ta phải tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác cho nên thường Thầy nhắc quý thầy là nên cố gắng đi kinh hành nhiều mà ngồi ít. Ở đây, chúng ta chưa có nói đến Định được là vì Định nó phải trải qua tới lớp thứ tám chúng ta mới tu tập Định. Còn bây giờ chúng ta đang tu từ lớp một cho đến lớp thứ bảy tức là Chánh Niệm mà Chánh Niệm chúng ta chưa có hoàn chỉnh được thì Chánh Định thì sao chúng ta làm được. Mà bảy cái lớp đầu tiên này đó là cái lớp Giới thì khi mà Giới thanh tịnh thì Định mới được. Do đó khi mà chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác tức là đi kinh hành để tỉnh thức chứ không phải Định.
Chúng ta ngồi tu nhiếp trong hơi thở cũng định tỉnh thức thôi chứ không phải đó là Định. Định là phải khi nào chúng ta có Tứ Thần Túc mới có Định được, thì phải có Định Như Ý Túc mới có Định, mới nhập được các Định mà Định Như Ý Túc có được là do cái Chánh Niệm nó sung mãn, do nó đầy đủ được cái Chánh Niệm. Chúng ta tu sai thì chúng ta không được cái kết quả, chúng ta tu đúng thì chúng ta mới có cái kết quả đúng. Mà muốn tu đúng thì cái Chánh Niệm Tĩnh Giác phải tu từng bước đi, từng hơi thở mà Thầy thường nhắc đi nhắc lại, thà là chúng ta không tu nhưng mà khi mà chúng ta tu, chúng ta hít thở một hơi thở, rồi chúng ta rất là nhiệt tâm với hơi thở. Rồi chúng ta bước đi, không bước đi thì thôi, nhưng mà đã bước đi thì rất là cẩn thận, kỹ lưỡng từng bước đi để cảm nhận từng bước đi của chúng ta. Đó là cách thức nhiếp tâm và an trú, an trú từng hơi thở, an trú từng bước đi, an trú từng hành động bằng cánh tay đưa ra, đưa vào đó là thân hành ngoại và thân hành nội.
(09:16) Cho nên chúng ta nghe những danh từ trong Kinh Phật nói Thân Hành Niệm, lấy cái thân hành mà làm cái niệm, đó là cách thức tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác làm cho chúng ta tỉnh thức mà thôi chứ không phải Thiền Định tại chỗ đó. Do như vậy chúng ta hiểu được tỉnh thức tức là làm cho chúng ta không còn ham ngủ, không còn thùy miên, hôn trầm đó là cái mục đích, cái phương pháp tu như vậy, chứ không phải Thiền Định. Cho nên hiểu một cách sai nữa, cho nó là sự nhiếp tâm như vậy, mình Thiền Định lại là tu chỉ, không phải ở đây chúng ta chưa có chỉ gì được cả.
Vì chúng ta chưa có thần lực thì chúng ta không chỉ được gì trên thân chúng ta cả, có thần lực mới chỉ được, ví dụ như bây giờ mình diệt tầm tứ tức là mình chỉ tầm, chỉ tức là ngưng tầm tứ. Mình chỉ hơi thở tức là mình ngưng hơi thở, mình chỉ tưởng tức là ngưng tưởng. Thầy muốn nói như vậy để thấy rằng chúng ta có đủ thận lực của Thiền Định thì chúng ta mới chỉ được, chứ không phải tu Thiền Định mà không có lực thì không thể tu được, không thể chỉ được. Cho nên nói diệt tầm tứ tức là chúng ta phải có một cái sức lực gì chúng ta mới diệt được thì cái sức lực đó được gọi là Định Như Ý Túc thì chúng ta mới diệt được. Vậy mà cái lớp Định chúng ta chưa nói tới đâu, chúng ta lo những cái lớp Chánh Niệm của chúng ta.
Chúng ta phải tu tỉnh thức mà thôi để trợ giúp cái Định Vô Lậu chúng ta quét sạch dục lậu và hữu lậu. Do cái chỗ tu cẩn thận bởi vì vô minh lậu rất khó. Thầy sợ các thầy, các con mà tăng cái giờ lên nhiều quá thì lúc bấy giờ cái hôn trầm, thùy miên sẽ dập mấy con tan nát và cuối cùng mấy con sẽ bị bỏ cuộc là vì cái thân của mấy con sẽ bị bệnh. Mà cảm thọ là một điều bệnh thân ở trên thân, tức là cảm thọ trên thân có sự đau khổ là một điều khó tu không phải dễ, rất là khó tu. Thân nó mạnh khỏe tu dễ mà thân nó bệnh đau rất là khó. Chúng ta chưa đủ cái đạo lực thì chúng ta khó mà đẩy lui được cái bệnh ngặt nghèo, đủ đạo lực thì chúng ta không sợ.
(11:40) Do đó hôm nay thì những giờ giấc Thầy chỉ mong các con tu đúng theo giờ giấc với đặc tướng của mình, đừng có vội mà tu cái giờ giấc quá cao, quá cái sức của mình. Mình tu mình biết cái sức hôn trầm, thùy miên của mình còn nhiều. Ở đây mình mới bắt đầu vào lớp, cho nên mình tu tập kĩ từng bước đi chắc chắn rồi mình tăng dần lên, từ chỗ tăng dần lên mà mình chiếm đoạt tất cả mọi sự mê muội của mình, hôn trầm, thùy miên sẽ vắng bóng. Còn mình ham nhiều, cái thời gian mình cố gắng mình thức nhiều, nhiều khi mình không làm chủ nổi cho nên các con phải khéo léo xem lại từng đặc tướng của mình. Chứ nhiều khi mình đưa ra cái thời khóa thì Thầy sợ mấy con tu nó không có chất lượng mà không có chất lượng thì nó rất là khổ.
Rất là khổ là vì con đường tu của mình nó không có đi tới nơi tới chốn và cái khóa tu của Thầy nó sẽ uổng cái công vừa là công Thầy dạy bảo mà vừa là công tu tập của mấy con nữa. Trong khi đem hết sức lực của mình ra tu chứ không phải là mình không tu. Thôi vậy thì trong cái thời khóa này, các con lượng lại cái sức của mình nếu được thì mấy con sẽ ghi vào cái thời khóa và ghi cho Thầy cái thời khóa của mỗi người bổ trợ, để Thầy nắm cái thời khóa đó mà Thầy biết cái giờ giấc của mấy con tu tập, để Thầy kiểm tra trong khi mấy con tu tập trong cái buổi tối, buổi khuya, buổi sáng đều. Mấy con nghĩ rằng Thầy hướng dẫn mấy con thì Thầy phải có mặt trong từng phút từng giây để biết rằng cái giờ giấc mấy con tu giờ nào cho chính xác để biết mà theo dõi, giúp đỡ mấy con tu tập.
(13:37) Khi cái giờ đó mà mấy con bị hôn trầm, thùy miên thì mấy con cũng sẽ biết rằng có Thầy ở bên mấy con để trợ giúp. Vì vậy cho nên mấy con phải cố gắng khắc phục mình nếu không thì coi như mấy con tưởng rằng Thầy không có ở bên mấy con rồi mấy con muốn ngủ nghỉ như thế nào, phi thời thì không đúng. Khi mình đặt ra thời khóa rồi nhất định chết phải giữ gìn đúng giờ, để mình chiến đấu với cái si của mình, mà tham, sân, si là cái si rất khó chứ không phải dễ. Như mấy con đã từng biết cái hôn trầm, thùy miên nó không phải một ngày, một giờ mà nó hết, các con cứ hỏi lại thầy Chơn Thành hôm nay thầy tu như vậy nhưng mà nếu mà thầy hở ra một chút không ôm pháp mai nó dập thầy liền chứ không phải dễ.
Các con phải nhận ra, nghĩa là nó vô một cách rất là nhanh chóng và nó làm cho chúng ta mất đi một cái thời gian ba mươi phút hoặc là một giờ không chừng, nó đánh chúng ta khiếp liền tức khắc. Mà may mà cảnh giác có phương pháp hẳn hòi thế mà nó còn đánh như vậy, thì mấy con lơ mơ là bị dập ngay liền chứ không, mà cứ tu cứ có đó ra vô, ra vô hoài thì mấy con dậm chân tại chỗ. Lúc thì gục cái, rồi tỉnh rồi tu nữa, rồi ráng lừ đừ tu rồi gục nữa thì như vậy mấy con tu hoài nó cũng vậy thôi. Nghĩa là làm sao tu mà hoàn toàn mình thấy rằng suốt một buổi đó không bao giờ có một cái hôn trầm, thùy miên bén mảng, tức là cái si của mình nó không còn. Và giờ khác, tới buổi khác mà mình tu thấy cũng không có và rồi phải tu trong bốn oai nghi. Không phải đi không, đi không thấy có nhưng ngồi lại có là chưa được, còn nữa. Chừng nào tu mà ngồi không có, mà ngồi không có lại nằm, nằm không có nữa, tỉnh bơ như vậy. Như vậy mà chúng ta tu trong bốn oai nghi mà rất tỉnh táo thì không có bóng dáng của hôn trầm thùy miên đánh vào thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy rằng vô minh lậu đã ra khỏi thân tâm chúng ta.
(15:35) Và hợp lại với cái pháp vô lậu mà chúng ta từng đã quán, từng đã tư duy quán để chúng ta diệt trừ tất cả tham sân của chúng ta thì lúc bấy giờ cả ba cái dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu không còn có nữa. Bây giờ chúng ta là người chứng đạo, có như vậy thôi chứ không có gì. Và chứng đạo thì các con thấy rằng chúng ta đã chứng đạt được chân lý tâm thanh thản, an lạc, vô sự, lúc nào cũng bình an không có hôn trầm, thùy miên, không có chướng ngại pháp gì trong thân tâm của chúng ta được tức là Tứ Niệm Xứ.
Mà tâm chúng ta đạt được như vậy rồi thì có đủ Tứ Thần Túc thì hiện tại tâm thanh tịnh như vậy tự nó có Tứ Thần Túc và đồng thời chúng ta thử cái lực của chúng ta nhập được Định hay chưa thì chúng ta bắt đầu thử một điều kiện cần thiết, như chúng ta bảo thân chúng ta bảo thân chúng ta đi trên hư không thì chúng ta thấy nhấc lên đi trên hư không thì đó là chúng ta có thần lực. Còn nếu chưa có thì các con đừng có nhập Định phí công vô ích vì Tứ Thần Túc nó sẽ có một lượt chứ không phải có cái này trước, có cái kia trước đâu. Dục Như Ý Túc có, chúng ta muốn thân nhấc lên thì thân sẽ nhấc lên, chúng ta muốn như thế nào thì thân sẽ làm như thế nấy thì Định Như Ý Túc chúng ta có. Mà Định Như Ý Túc chúng ta có thì Tuệ Như Ý Túc chúng ta có, mà Tuệ Như Ý Túc chúng ta có thì chúng ta thực hiện Tam Minh một cách dễ dàng chứ không còn khó khăn nữa. Ví dụ như các con, cha mẹ đã mất quá lâu, bây giờ các con có được Tam Minh, thì các con dùng Túc Mạng Minh, các con dùng Thiên Nhãn Minh, các con sẽ quan sát coi cha mẹ mình, đang ở đâu, nơi nào thì các con sẽ biết rất rõ ràng và cụ thể như các con nhìn thấy Thầy và các con ….
(17:36) Cho nên tu, mặc dù chúng ta không phải là những người luyện thần thông nhưng chúng ta có những đạo lực khi tâm thanh tịnh, chúng ta trắc nghiệm được chúng ta. Chúng ta biết rất rõ là chúng ta có đạo lực nhưng không vì đó mà chúng ta tham đắm mà chúng ta chỉ biết rằng chúng ta sẽ giải thoát hoàn toàn, chấm dứt luân hồi không còn tái sanh nữa. Đó là chúng ta nghiệm lại thấy được cái khả năng của mình để mà nhận mình mà vì vậy mà mình biết tâm mình thanh tịnh hoàn toàn còn một kiếp này mà thôi.
Tức là tâm thanh thản, an lạc, vô sự đó chân lý của các con đã thực hiện được. Khi thực hiện được mà sống được trong chân lý đó thì như Thầy đã nói con có Tứ Thần Túc hẳn hòi, hoàn toàn, kẻ nào người nào mà chưa thanh tịnh được, tức là Tứ Niệm Xứ chưa sung mãn thì chưa bao giờ có Tứ Thần Túc, nó còn một trục trặc gì thì chúng ta tiếp tục giữ tâm mình cho thanh tịnh. Như vậy thì hôm nay chúng ta đang tu hai cái pháp, một cái pháp là Chánh Niệm Tỉnh Giác nhưng pháp này chúng ta phải tu theo đặc tướng, tu theo khả năng, không được tu nhiều, nhớ kĩ không được tu nhiều. Các con tu nhiều là các con bị ức chế và đồng thời các con bị lọt trong tưởng. Còn tu vừa với sức mình, với ý thức, với đặc tướng của mình thì mình không bị ức chế, do đó mình không lọt vào tưởng và vì vậy cơ thể của mình tu tập không bị rối loạn, không bị căng, không bị rối loạn thần kinh do đó càng tu càng thấy thoải mái, dễ chịu và sự tu tập càng ngày càng tiến bộ rõ rệt, và hôn trầm, thùy miên càng lúc càng thấy lui dần và biến mất, phải nhớ kĩ.
(19:20) Quan trọng rất lớn đối với tâm si của chúng ta thì nó là phương pháp đối trị rất là tuyệt vời, nhưng phải khéo léo, phải tu tập đúng, sai là không được. Thầy từng nhắc cho nên tu từng hơi thở, tu từng bước đi, tu từng hành động đó là điều cần thiết để mấy con tu tập.
(19:44) Bây giờ về thời khóa Thầy xin trả lại, mấy con sẽ nương theo cái thời khóa mà ghi lại cho đúng đặc tướng của mình. Ở đây các con thường ghi cái thời khóa quá cái thời gian, Thầy biết sức của mấy con chưa làm được trên cái vấn đề thời gian đó. Thí dụ như bảy giờ tối cho đến mười giờ, rồi buổi khuya mấy con tu tập từ hai giờ đến năm giờ, rồi ban ngày bảy giờ đến mười giờ rưỡi. Tất cả những cái giờ giấc mấy con phân ra Thầy sợ e mấy con không đủ sức, mấy con nên lui lại, đừng theo thầy Chơn Thành mà hãy tập theo mình. Còn thầy Chơn Thành thì Thầy sẽ theo sát để Thầy giúp cho được, thầy còn những gì khó khăn để cho thầy vượt qua để thầy đạt được càng sớm có người tu xong thì càng đỡ Thầy biết mấy. Cho nên Thầy mong rằng mấy con cố gắng thực hiện cái giờ. Thầy xin mấy con trả lại cái thời khóa dùm Thầy. Còn cái bài mấy con viết về Định Vô Lậu thì mấy con viết lại, có nhiều bài mấy con viết rất là chính xác, rất là hay, Thầy chấp nhận những cái bài viết vừa rồi mấy con nhận ra được và khi mấy con viết nó không còn có những cái lỗi là nó đưa ra nhiều cái góc độ của nhân quả. Cho nên có những bài còn phạm phải nhưng mà có những bài thì đã tốt. Các con hãy làm. Bây giờ ở đây là cái bài của Minh Trí, Thầy có khuyên Minh Trí, con hãy siêng năng tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác để phá sạch hôn trầm, thùy miên, nhớ tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác.
(21:24) Còn cái bài của con viết có chỗ là nhân quả, nhưng mà con đã lầm, con để một đoạn là chuyển đổi nhân quả, tức là cái đoạn đó để sau này làm cái bài nhân quả chuyển đổi, để sau này lấy những cái bài đó mà chúng ta chuyển đổi được nhân quả thiện ác nơi thân hành của chúng ta. Vì vậy mà con nên làm lại cái bài nhân quả thảo mộc, nghĩa là phải nói cho rõ ràng, hạt, trái, ngọt, bùi, cay, đắng. Vốn là cái bài học đầu tiên này, nghĩa là nói đặc tính của nhân quả thảo mộc là phải nói ngọt, bùi, cay, đắng chứ đừng có đi qua một cái nhân quả duyên hợp, mà cũng đừng có nói cái nhân quả duyên tan, mà cũng đừng có nói cái nhân quả chuyển biến. Ở đây chúng ta chưa đến cái nhân quả chuyển biến cũng như là chưa nói đến cái nhân quả duyên tan, duyên hợp bởi vì chúng ta sẽ thấy cuộc đời của chúng ta sống ở trong cái quy luật của nhân quả thì nó đầu tiên chúng ta phải hiểu cái nhân quả thiện ác tức là đặc tính của nhân quả, nó có cái thiện cái ác của nó.
Rồi cái nhân quả mà duyên hợp, nó tạo những cái duyên nó mới hợp lại nó mới thành được cái nhân, cái quả, còn không có duyên là nó không có thành. Đó là nhân quả duyên hợp. Còn chúng ta phải làm một cái bài riêng của nhân quả duyên hợp, rồi khi mà nó hợp rồi nó thành hình, nó thành vật, nó thành mọi vật rồi thì chúng ta phải viết một cái bài nói về nhân quả duyên tan, có tan phải có hợp, tức là có thành phải có hoại. Mà mỗi một cái đề tài như vậy thì chúng ta phải xoáy sâu vào để làm cho mình hiểu mà người khác người ta đọc vào người ta hiểu nhân quả rất là khoa học cụ thể rõ ràng, không có mơ hồ. Đó thì những cái bài mà mấy con sẽ kế tiếp làm thì Thầy sẽ cho cái đề mục, còn những người nào mà làm chưa ổn thì Thầy sẽ nhắc lại để cho mấy con biết để mà làm lại.
(23:30) Như bài này của Tịnh Quang, bài này triển khai nhân quả thảo mộc, đặc tính nhân quả duyên hợp, nhân quả chuyển đổi, tức là cái bài của con nó làm thành ba cái bài của nhân quả gộp lại trong một cái bài của con. Ở đây thì Thầy muốn nói nhân quả đặc tính của thảo mộc khi mà nó có hạt thì nó ra cái trái, nó lên cây thì nó thành cái trái, cái trái nhiều trái ít rồi trái ngọt, trái đắng, trái sai. Đó là cái đặc tính của nhân quả, mình nói cho rõ cái đặc tính đó đã. Mình không nói gì khác hơn hết. Rồi kế đó mình sẽ học tới một cái bài khác, mà mình sẽ học cái nhân quả duyên hợp, rồi nhân quả duyên hợp rồi thì mình sẽ học đến cái nhân quả duyên tan, tư duy nó có hợp, nó có thành, nó có hoại, nó có tan trong cái nhân quả, nghĩa là mình có sanh thì phải có diệt chứ không thể nào không.
Vì vạn vật sinh ra rồi diệt, diệt bằng mọi cách, diệt bằng những cái không phải ngẫu nhiên đâu mà nó có cái quy luật của nó. Chết hàng loạt đều là có quy luật của nhân quả. Cho nên chúng ta phải có sự tư duy cho nó kĩ lưỡng, như chẳng hạn bây giờ chúng ta thấy một cơn sóng thần mà giết hàng loạt người, một sự khủng bố hàng trăm ngàn người chết, chết lớp lớp, một trận động đất để lại biết bao nhiêu sự chết chóc của sự sống trên hành tinh này trong đó có loài người.
Cho nên như việc cúm gia cầm, nó cũng đem lại cho người ta chết hàng loạt. Vậy thì chúng ta thấy rằng đó là cái nhân quả duyên tan, nó tan một cách cũng ghê gớm và nó hợp cũng trùng trùng nó hợp và nó tan nó cũng trùng trùng nó tan. Do như vậy chúng ta phải có cái sự quan sát kĩ để thấy được cái quy luật của nhân quả rất là kinh khủng.
(25:34) Vì vậy bài hôm nay nói về đặc tính của thảo mộc, chứ không phải nói về duyên hợp, duyên tan hoặc là chuyển đổi nhân quả. Cho nên chúng ta khi viết thì chúng ta làm chúng ta đưa ra nhiều cái góc độ của nhân quả trong cái nhân quả thảo mộc. Cho nên ở đây Thầy muốn các con xoáy lại một cái đề tài cho nó đúng làm cho chúng ta hiểu như thật, đúng như thật, cụ thể như thật qua cái sự diễn biến của nhân quả.
Đây là cái bài của Tịnh Quang. Bài của Thiện Thảo, con hãy làm lại bài này một lần nữa, chỉ nói đặc tính nhân quả của thảo mộc mà thôi. Cái bài của con viết phải nói là nó có nhiều chỗ con nói chưa hết. Bài của Phước Tồn, bài này đã triển khai nhiều loại nhân quả thảo mộc, nhân quả tính chất, nhân quả duyên hợp, nhân quả chuyển đổi. Vậy con hãy làm lại nhân quả tính chất, chỉ duy nhất đừng ghép nhân quả khác vào. Đó là cái lời phê của Thầy để con biết con làm lại. Vì chúng ta làm cái bài này rồi, nếu đúng chúng ta còn nhẩm đi nhẩm lại nhiều lần để chúng ta thấm nhuần được lý nhân quả. Với đôi mắt của chúng ta hiện giờ Chánh Kiến là chúng ta thấy mọi sự, mọi việc, tất cả mọi vật, mọi hoàn cảnh xảy đến cho chúng ta trước mắt đều gọi là Chánh Kiến thì phải thấy nó là nhân quả.
Cho nên, Thầy có viết một đoạn để nhắc nhở khuyên lơn mọi người đừng thấy những sự đúng sai, phải trái mà hãy thấy nhân quả thiện ác. Lời nói ngắn gọn, nhưng nó đầy đủ nhưng muốn thấy nhân quả thiện ác thì chúng ta phải có sự tư duy suy nghĩ về nhân quả để thấy nó như thật, nó không có còn che đậy, ngăn che trong lòng chúng ta nữa.
(27:32) Mà thấy như thật thì nó mới giải quyết được tâm dục lậu, hữu lậu của chúng ta, còn nếu thấy mà không đúng thì tâm dục lậu, hữu lậu của chúng ta cũng sẽ còn và không có diệt được. Minh Nhân đề tài nhân quả thảo mộc triển khai như thế này tạm đủ, con hãy tiếp tục làm bài kế, nhân quả thảo mộc duyên hợp. Minh Nhân con hãy làm bài kế, tức là bài này con có thể nhẩm đi, nhẩm lại và tiếp tục bài nhân quả thảo mộc duyên hợp rồi Thầy sẽ cho bài kế nữa khi mà duyên hợp xong thì Thầy sẽ cho con bài kế nữa là duyên tan.
Nhân quả thảo mộc, bài này đó thì con hãy đọc lại cho thấm nhuần và nó còn thiếu một chút ít đặc tướng nào thì thêm vào, khi đọc lại cho nó thấm nhuần, mình sẽ soát lại nếu mà nó còn thiếu một cái đặc tướng nào trong cái bài nhân quả đặc tướng này thì con sẽ thêm vào cho nó được đầy đủ hơn.
Đây là cái bài của thầy Chơn Thành, nó tạm đủ rồi nhưng đọc đi đọc lại chúng ta còn thấy những cái đặc tướng nào trong đầu chúng ta nó còn chưa thấy nó hoàn chỉnh thì chúng ta hãy thêm cho nó đầy đủ. Khi mấy con viết cái bài này thì mấy con chép lại, mấy con sẽ chép lại nhiều lần, chép lại cho nó hẳn hòi đàng hoàng để con lưu lại để mỗi khi chúng ta đọc, chúng ta thấm nhuần, thấm nhuần cái lý nhân quả, coi nó còn thiếu chỗ nào.
Trong cái thời gian, ví dụ như bây giờ các con học nhưng một tháng sau, hai tháng sau, các con đọc, các con thấy nó còn thiếu và như vậy các con bổ sung thêm cái bài của mình để cho khi đó các con có cái nhìn của nhân quả thấu suốt không còn một sự sơ sót. Và sự thấu suốt không còn một sự sơ sót, các con thấy tri kiến của các con ghê gớm lắm, nó soi vào một cái vật gì là cái vật đó không có chạy qua khỏi con mắt của nhân quả đó đâu.
(29:33) Cho nên nó thấu rõ, mà nó thấu rõ thì không bao giờ những cái pháp đó tác động được vào tâm nó đâu bởi vì nó thấy quá cụ thể nhân quả. Cho nên vì vậy mà mấy con đừng có nghĩ rằng bài này mấy con viết thì mấy con sẽ ném bỏ. Khi mấy con hoàn thành được bài luận về nhân quả rồi, nó là cái vật quý báu nhất của các bài học và cũng là một cái kỉ niệm của cái lớp này trong cuộc đời của mấy con để sau này có những điều kiện, có những người nào họ học, hoặc là trong gia đình mình học thì họ sẽ nương vào cái bài đầu tiên của mình viết và họ dựa vào đó họ triển khai tri kiến nhân quả của họ nó dễ dàng hơn.
Bởi vì các con biết rằng, Thầy đưa ra trong hiện giờ để cho mấy con tự triển khai tri kiến của mình, chứ nếu mà có được cái bài mà đã viết sẵn về nhân quả thì Thầy sẽ cho mấy con đọc thì mấy con không có còn lâm vấp vào cái chỗ mà viết nhân quả nó lộn xộn như thế này.
Đưa ra cái đề tài nó quá mông lung, ví dụ như nhân quả thảo mộc thì không biết nó là đưa nó vào cái chỗ nào cho nên Thầy quên cho cái đề tài như con là đặc tính của thảo mộc, nhân quả thảo mộc, nhân quả, đặc tính thảo mộc, thì cái này là đặc tính thì các con biết nó ở trong cái chỗ nào mà viết. Còn nói nhân quả thảo mộc thì nó là duyên hợp, duyên tan rồi đặc tính rồi chuyển biến nhân quả của nó nữa. Nó nhiều quá làm cho mấy con đưa ra một cái bài, cái nào nó cũng có nói nhưng không sâu.
Cho nên bây giờ biết rồi thì bây giờ mấy con làm lại nó sẽ tốt hơn và đồng thời đưa cái đề tài nó không có mông lung quá. Thầy đưa cái đề tài quá mông lung nhưng mà Thầy nghĩ rằng nó là cái đặc tướng nhưng mà mấy con không hiểu và mấy con đưa ra. Nhưng mà tại cái đề tài quá cô đọng thành ra trong nhân quả thảo mộc nó có nhiều góc độ mà mình đưa như vậy thì người ta sẽ làm cái bài nó như vậy chứ không phải gì. Cũng là cái lỗi của Thầy vì đưa cái đề tài nó quá cô đọng. Nó không có rõ ràng lắm. Vì vậy cho nên nếu mà đưa cái đề tài mà nó cụ thể hơn thì chắc mấy con không làm như vậy, mà làm cái suy tư về vấn đề đề tài đó.
Đây là cái phần của thầy Chơn Thành. Thiện Trí con hãy làm lại bài tiếp, nhân quả thảo mộc tính chất hạt trái của nó. Bài của con con hãy làm lại một cái bài khác để nói về tính chất của nhân quả rồi thôi. Về cái bài của Phụng thì con hãy tiếp tục làm cái bài nhân quả duyên hợp, nhân quả thảo mộc duyên hợp, nhân quả thảo mộc đặc tính của nó ngọt, bùi, cay, đắng thì con triển khai như cái bài này cũng tạm đủ, rồi con lặp đi lặp lại coi nó còn thiếu gì thì con thêm về cái đặc tính đó nữa.
Còn không thì cái bài này tạm đủ cho cái bài đặc tính của nó rồi, thì con sẽ tiếp tục. Kì sau con sẽ tiếp tục con viết cho Thầy cái bài nhân quả thảo mộc duyên hợp, đó là cái kì sau. Người nào chưa làm xong thì bắt đầu làm lại, người nào đã làm xong thì cho cái bài khác để mấy con tiếp tục trên cái Định Vô Lậu, tư duy quán xét về nhân quả.
Còn Thanh Quang thì con hãy triển khai rộng về nhân quả duyên hợp, bài luận về nhân quả thảo mộc đã triển khai được đặc tính. Cái bài này con nộp cho Thầy cái đặc tính con đã triển khai được, duyên hợp và chuyển đổi nhân quả thì trong cái sự duyên hợp chuyển đổi nhân quả trong bài này cũng có nhưng nó chưa đủ. Như vậy hiện giờ thì tiếp tục con sẽ làm cho Thầy cái bài triển khai rộng nhân quả thảo mộc duyên hợp. Bây giờ làm cái bài mới là duyên hợp rồi mai mốt Thầy sẽ cho cái bài duyên tan. Với cái đặc tính của con qua cái sự trình bày trong cái tập của con Chơn Tịnh, qua sự quán xét thì với đặc tính của con từ lâu đã có sự tu tập với Thầy cho nên hôm nay xét lại đặc tướng của con thì con nên tu tập Tứ Niệm Xứ.
Nếu ác pháp nào tác động vào thân, thọ, tâm và pháp thì con dùng pháp Như Lý Tác Ý mà quét ra khỏi bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp của con để thân, thọ, tâm, pháp của con được bình an, thanh thản và vô sự.
(34:07) Hãy bảo vệ Tứ Niệm Xứ tức là hộ trì chân lý nếu có hôn trầm, thùy miên thì nên đi kinh hành nhưng vẫn giữ tâm bất động, chứ không tập trung ức chế tâm mình vào bước đi mà giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Con nhớ những cái điều mà Thầy dạy, khi có hôn trầm, thùy miên thì nên đi kinh hành hoặc trong những buổi khuya nhưng vẫn giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự của mình.
Đó là điều giữ tâm, có nghĩa là để tự nhiên tâm thanh thản, an lạc, vô sự chứ không khéo hiểu hai chữ giữ tâm thì lại là ức chế. Cố gắng để giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì cũng lại bị ức chế thì nó không đúng pháp Tứ Niệm Xứ. Nhớ kĩ Tứ Niệm Xứ tu không khó nhưng khó là chỗ không biết thì chúng ta sẽ bị ức chế tâm.
Để tự nhiên tâm bất động thì tự nhiên tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự chứ không phải là giữ tâm thanh thản mà để chỗ tâm bất động là nó sẽ thanh thản, an lạc, vô sự. Nhớ như vậy thì con sẽ tu tập và đồng thời Định Vô Lậu thì con cũng phải cố gắng vì đó là triển khai tri kiến của mình pháp môn Định Vô Lậu để làm chúng ta có sự hiểu biết. Bởi trong Đạo Phật lấy sự hiểu biết của chúng ta mà làm cái hàng rào kiên cố bảo vệ thân, thọ, tâm của chúng ta.
Cho nên tri kiến giải thoát là một sự hiểu biết rất cần thiết, nó không phải là trí tuệ bởi vì chúng ta chưa có Định làm sao gọi là chúng ta trí tuệ được. Vì vậy mà đó gọi là tri kiến, vì vậy nhờ tri kiến mà chúng ta sống đời sống đức hạnh, giới luật không vi phạm, có hiểu biết thì giới luật nó mới thanh tịnh, mà không hiểu biết thì giới luật không thanh tịnh.
Nhưng giới luật làm cho tri kiến của chúng ta thanh tịnh và tri kiến làm cho giới luật thanh tịnh, như lời Đức Phật nói: "Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó, tri kiến làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh tri kiến".
(36:19) Chúng ta tu tập mọi pháp môn không rời khỏi giới luật mà không rời khỏi giới luật thì không rời khỏi tri kiến, nghĩa là không được diệt tri kiến. Tri kiến của chúng ta phải hoàn toàn triển khai hoạt động rất là tinh vi và sâu sắc chứ không làm cho chúng ta vô phân biệt, điều đó là điều không đúng của Đạo Phật. Cho nên đối với Thiền Tông mà chẳng phân biệt, vô phân biệt thì Thiền Tông nghĩ cho nên nó không đúng đường lối của Đạo Phật.
Đức Phật dạy chúng ta lấy tri kiến mà triển khai cho nên pháp như lý tác lý là đầu tiên của cơ sở để chúng ta có những cái phương pháp mà diệt ngăn các ác pháp là nhờ tri kiến của chúng ta hiểu biết cái thiện, cái ác và pháp Như Lý Tác Ý kèm theo để mà ngăn diệt các ác pháp không cho chúng tác động vào thân tâm của chúng ta mới đem lại sự bình an, sự giải thoát cho mọi người. Kế đó khi tu tập Tứ Niệm Xứ và tu tập Định Vô Lậu tức là tri kiến giải thoát. Bài này của bác Phước con nên viết lại, viết một bài về nhân quả thảo mộc duyên hợp, con nên viết lại một cái bài nhân quả thảo mộc duyên hợp tùy theo khả năng của con mà con viết để con hiểu một cái sự hiểu biết của con. Nói về duyên hợp của thảo mộc, bài này tạm đủ để cho con hiểu về đặc tính của nhân quả, tạm đủ cái sức hiểu biết của con về đặc tính của nó. Cho nên con tiếp tục viết bài nhân quả thảo mộc duyên hợp.
(38:08) Chơn Thành. Một bài nữa của Chơn Thành, bài chuyển đổi nhân quả thảo mộc này phải đọc kĩ và viết lại để thấm nhuần, nghĩa là con đã viết về nhân quả thảo mộc chuyển đổi. Hôm nay, Thầy khuyên con phải đọc kỹ lưỡng lại cho thấm nhuần và có thể thiếu khuyết những cái gì mà chưa chuyển đổi được nhân quả của thảo mộc thì hãy thêm vào. Như những gì cần thiết mà con thấy chưa có hết, thí dụ như trong một cái củ thì nó có cái hạt, cái nhân, cái nhân, cái hạt của một cái củ cho nên từ cái củ có thể lên cái dây, rồi từ cái củ ở trong cái củ đó là cái quả.
Cho nên có những cái nhân quả chuyển đổi một cách rất là phi thường mà chúng ta cứ nghĩ rằng có nhân quả chỉ có thiện ác không mà nhân quả còn có sự thay đổi, mà nhân quả còn có sự vi diệu như trong nhân có quả, trong quả có nhân. Nhưng ngay từ cái củ mà đã có nhân, cũng một cái củ mà đã có nhân có quả ngay liền mà không có tách rời quả và nhân ra. Nó hợp nhau thành nhân và quả, nó thành một cái khối không thể tách rời ra, cũng như có cái loại cây thí dụ như cây tre thì các con thấy cây măng nó dưới cái cây tre gắn liền nhau, cái quả và cái nhân của nó nó không có tách rời ra mà nó thấy chung nhau cho nên chúng ta thấy nhân quả nó rất là vi diệu. Nó cấu tạo rất là tuyệt vời. Cho nên có cái thì chúng ta thấy cái hạt khác mà cái quả nó khác, trong quả có hạt mà trong hạt có quả, còn có cái nó kết hợp lại ngay từ ở trong cái cây thì nó đã có cái quả ở trong đó rồi, cũng như ngay trong từ trong cái củ là cái quả mà ngay trong đó là có cái nhân, mà cái nhân lại không tìm ra cái nhân mà chính nó nằm trong đó. Chúng ta thấy nó cụ thể rõ ràng, cũng như ngay từ cái dây mà chúng ta thấy cái hạt của nó rồi mà lại từ cái dây đó nó lại ra những cái củ thì đó là cái quả của nó rồi.
(40:31) Nó là cái sự duyên hợp của nó tạo của nhân quả rất là vi diệu, mọi cách, mọi sự sinh diệt của nó, mọi cái sự duyên hợp tạo sanh ra tức là cái duyên hợp để mà sinh khởi ra, nó nhiều hình thức của nhân quả. Vì vậy mà chúng ta phải nói hết những cái điều này để sau khi chúng ta nói đến con người thì nó còn vi diệu hơn nhiều cách nữa. Cho nên đừng nghĩ là con người chỉ có một cái đường sanh ra của cái thai sanh mà sanh ra con người , không phải đâu. Vì cái con người thai sanh là nó tiện nhất, dễ nhận ra nhất còn tất cả những cái sự sanh khác chúng ta đừng thấy rằng nó không có nhưng mà nó vẫn có. Thí dụ như cái về thảo mộc, chúng ta thấy rõ ràng là từ một cái hạt nó lên một cái cây rồi không có cái hạt mà nó vẫn lên cây được. Đó thì các con thấy nó đâu phải là chỉ có một cái chỗ cái hạt cái nhân đó mà nó ra được cái cây đâu mà nó còn có những cái thứ khác nữa. Cho nên cái sự sanh của nó đó nó có nhiều cái góc độ sanh, có nhiều góc độ sanh, duyên hợp, nó có nhiều góc độ duyên hợp, nó đủ duyên nó hợp lại, ngay cái môi trường đó là phải hợp để nó sanh ra cái loài đó, cái loài đó phải sanh như vậy. Cho nên nó không ngoài cái hạt và cái trái, mà cái hạt của nó, nó không phải là cái hạt mà cái sợi dây hoặc là cái củ cũng là một cái điều kiện cho chúng ta tư duy về nhân quả. Bởi chúng ta thông suốt được nhân quả, do đó mà cái bài mà viết về nhân quả duyên hợp.
HẾT BĂNG