00:00
00:00
Mục lụcA+A-Lưu sáchTìm trong sách
Ẩn Mục lụcPhóng toThu nhỏInLưu sáchTìm trong sách

Phiên bản điện tử dành riêng cho Thư viện Chơn Như:
https://thuvienchonnhu.net

Quý bạn đọc muốn thỉnh sách giấy vui lòng liên hệ
Ban kinh sách của Tu viện Chơn Như:
Điện thoại: (0276) 389 2911 - 0965 79 55 89
(Sách chỉ kính biếu, không bán!)

Ước mong mọi người sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Chuyển ngữ: Nhóm Phật tử & Tu sinh Chơn Như

2000 - TU TẬP GIẢI THOÁT 02 - TÂM VÔ SỰ LÀ TÂM GIẢI THOÁT

TU TẬP GIẢI THOÁT 02 - TÂM VÔ SỰ LÀ TÂM GIẢI THOÁT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 2000

Thời lượng: [01:00:05]

Tên cũ: 2000-Tu tập giải thoát 2-Đạo đức giải thoát(trả lời ptử)

1- TÂM VÔ SỰ LÀ TÂM GIẢI THOÁT

(00:00) Phật tử: Mô Phật! Kính bạch Thầy, con cảm thấy những điều Thầy dạy, con thực hành mấy hôm nay. Con cảm nhận rằng, do chỗ xả tâm, thì tự nhiên nó trong trạng thái an định. Như ngày hôm qua, buổi sáng, con đi thiền hành ở bên nhà giảng phía sau, còn chừng bốn mươi phút nữa, thì con định về thất để con ngồi thiền.

Tại vì con muốn giữ thời thiền trong một ngày, con tu một thời như vậy, ngồi khoảng nửa tiếng cho quen. Do đó, con đi thiền hành thì thấy thân tâm nó thanh thản, an lạc thật sự. Rồi con đi về để con ngồi, ngồi như vậy chớ không có chủ đích gì.

Con cũng chỉ áp dụng phương pháp vậy thôi. Qua đó thì tâm tự nhiên nó bặt vào chỗ thanh tịnh như vậy. Con thấy rằng, chỗ đó là do con xả tâm, chớ không có do ức chế, tự nhiên thôi, không có cố ý. Vào buổi khuya hôm đó, thường khi con đi kinh hành, thì con phải đi xa xa, rộng rộng chút.

Bữa đó vừa thức dậy, chuông reo thì dậy. Lúc dậy con cảm thấy nó buồn ngủ, nên con nhắc tâm con làm chủ: “thức dậy!”. Nói như vậy là thức dậy ngay, tỉnh rồi con đi kinh hành chỉ khoảng trước cái thất của con, một đường ngang đó thôi, không cần đi hết cái vòng nữa. Chỉ một đường ngang thôi, thì cũng cảm thấy được an lạc.

Còn có nhiều lúc đi hoài, đi mấy tiếng đồng hồ không có an lạc gì hết. Rồi khuya đó thì con cảm nhận như vậy, con đi một đường ngang với quẹo một chút nữa, khi đi nghe nó thanh thản an lạc hoàn toàn. Rồi tiếp theo là buổi sáng rồi đến trưa, con rơi vào trạng thái như vậy. Tự con nhận xét, con thấy là do chỗ xả tâm, rồi an lạc thật sự, tự nhiên nó đến chỗ, vào chỗ thanh tịnh như vậy, mà không có chủ đích, không có ức chế. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

(02:55) Trưởng lão: À trong vấn đề tu tập của con, thì Thầy đã căn dặn nhắc nhở cho mấy con, là phải tu cho đúng. Cho nên sau những khi tu tập, các con xét thấy rõ ràng mình không ức chế, tức là mình không (ép), mình là vô sự. Không bắt buộc cái tâm của mình phải làm một công việc gì, ngoài công việc của nó là quan sát bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp, để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó mà thôi.

Tại vì có những ác pháp khác, nó làm cho thân tâm của mình chướng ngại. Vì vậy buộc lòng mình phải tìm cách để mình đẩy lui nó. Cho nên mình không vô sự được là vì có nó, chớ nếu mà không có nó, thì mình là vô sự. Mình là vô sự hoàn toàn, là không có làm gì hết. Không có làm gì hết, mà tâm hoàn toàn nó không có bị dục, không có bị sân, không có bị phiền não, thì lúc bây giờ rõ ràng là thân, thọ, tâm, pháp của mình là vô sự. Cho nên, mình xét thấy từng ly, từng tí.

Cho nên vì vậy, mà đức Phật dạy mình tỉnh giác. Tỉnh là tỉnh, bình tĩnh để mà giác, hiểu ở trên chỗ thân, thọ, tâm, pháp của mình. Vì vậy mà mình ngồi mình lắng nghe, mình đi mình lắng nghe, để lắng nghe cái ác pháp của nó có ở trên đó hay không? Nếu nó không có, thì nó ở trong vô sự của mình. Mà nó vô sự thì nó phải thanh thản, an lạc. Cho nên vì vậy, hoàn toàn mình là người vô sự, luôn luôn mình giữ mình vô sự.

Như Thầy hồi nãy đã nói. Cho nên, trên sự tu tập của con, con xét thấy nếu mình hữu sự, tức là mình bị ức chế pháp. À bây giờ tâm của mình hoàn toàn nó vô sự rồi, nó thanh thản, an lạc rồi, mà bây giờ mình bắt nó ở trong hơi thở. Như Thầy nói, bắt hơi thở, hay là bắt nó phải biết đi kinh hành, bắt nó phải hít thở, thì như vậy nó hữu sự, mà nó hữu sự tức là nó phải bị ức chế. Nó lại thêm cho nó một công việc, để cho nó làm. Như vậy rõ ràng là mình đã làm cho mình khổ. Mình đã làm thêm việc cho mình khổ.

Mà đời sống của đức Phật là sống đời sống vô sự, nghĩa là Ngài bỏ hết hoàn toàn mọi cái, trắng bạch như vỏ ốc, tư tưởng của Ngài phóng khoáng như hư không. Nghĩa là Ngài hoàn toàn vô sự, không có một chút xíu nào mà làm cho Ngài hữu sự. Thậm chí như một pháp tu, mà cái pháp biến Ngài thành hữu sự, Ngài đã bỏ đi, Ngài trở về với pháp vô sự.

Cái pháp vô sự đó, thì bằng chứng là Ngài trở về với Tứ Thánh Định, là Sơ Thiền, là cái Thiền đầu tiên. Cái thiền đầu tiên gọi là “ly dục, ly ác pháp”. Mà ly dục, ly ác pháp, tức là ly những chuyện hữu sự của nó, ở trên thân, thọ, tâm, pháp của nó. Bởi vì, nó còn dục, và còn ác pháp thì nó là hữu sự, mà nó hết dục, hết ác pháp là vô sự. Cho nên gọi là “ly dục, ly ác pháp”, tức là Ngài trở về cái vô sự của mình. Mà Ngài trở về vô sự của Ngài, thì Ngài có tu cái gì đâu. Cho nên, Ngài chỉ quan sát lại nó coi nó có sự, thì Ngài hoàn toàn đuổi tất cả những sự việc đó ra khỏi - chuyện hữu sự của nó, để cho nó trở thành vô sự, mà trở thành vô sự thì Ngài giải thoát.

(05:51) Cho nên, Ngài nói tâm không phóng dật, Ngài không phóng theo các sự, thì tức là tâm Ngài sẽ giải thoát, mà tâm Ngài giải thoát, tức là Ngài thành Chánh Giác.

Cho nên trong sự tu tập của chúng ta, cái pháp tu tập không làm cho chúng ta thêm sự việc. Nhiều khi chúng ta muốn giải thoát, mà lại dùng một pháp để tu tập, thì cái pháp để tu tập đó, nó làm chúng ta hữu sự. Còn ở đây, trên Tứ Niệm Xứ là cái phương pháp. Cái phương pháp Tứ Niệm Xứ, để nhìn Tứ Niệm Xứ, mà xem coi nó có chướng ngại gì không, nếu nó không có chướng ngại, thì đó là giải thoát, có chướng ngại thì không giải thoát. Nếu có chướng ngại thì đẩy lui nó thôi, còn nó không chướng ngại thì nó là vô sự.

Cho nên vì vậy, chúng ta có pháp gì để mà tu đâu, không được tối ngày, chúng ta không có tu gì hết. Cho nên nó nhàn nhã, nó nhẹ nhàng, nó giải thoát hoàn toàn.

2- TÂM VÔ SỰ ĐỦ NĂNG LỰC NHẬP CÁC ĐỊNH

(06:47) Trưởng lão: Cho nên cuối cùng thì duy nhất như hồi nãy Thầy nói, dù là thanh thản, dù là an lạc, dù là vô sự, nhưng chúng ta biết rằng cái năng lực, nội lực của chúng ta không có, để chúng ta hoàn toàn quét sạch tham, sân, si của chúng ta. Do đó chúng ta phải thường nhắc: “Tâm như cục đất, không có tham, sân, si”, “Tâm ly dục, ly ác pháp, để nhập Sơ Thiền”. Chúng ta nhắc nó, thường xuyên chúng ta nhắc, thỉnh thoảng chúng ta nhắc.

Bởi vì đức Phật nói, nếu chúng ta nhắc câu này rồi, tới nhắc câu khác, như niệm nó, như đọc nó, thì nó làm chúng ta bị tập trung, bị ức chế, bị hữu sự. Thỉnh thoảng chúng ta nhắc khéo tâm: "Tâm ly dục, ly ác pháp; tâm như cục đất, không có tham, sân, si nữa". Từ đó nó có cái nội lực không tham, sân, si, để giúp chúng ta sau này. Khi hoàn toàn tâm không tham, sân, si, thì chúng ta mới nhớ để chúng ta hướng tâm nhập các Định, tức là dẫn tâm vào các Định. Ta muốn nhập Nhị Thiền, thì chúng ta bảo: “Tâm diệt Tầm, Tứ, nhập Nhị Thiền đi!” thì nó sẽ nhập Nhị Thiền; “Tâm ly hỷ, ly mười tám loại hỷ tưởng, nhập Tam Thiền!” thì nó sẽ ly mười tám loại hỷ tưởng, nhập Tam Thiền; “Tâm tịnh chỉ hơi thở, hơi thở dừng!” thì hơi thở chúng ta dừng, chúng ta nhập Tứ Thiền. Và “Tâm hướng về Túc Mạng Minh, biết nhiều đời, nhiều kiếp!” thì ngay đó, tâm sẽ biết được nhiều đời, nhiều kiếp; và “Tâm hướng về Thiên Nhãn Minh!” thì tâm sẽ biết được nơi xa, nơi cách sông, cách núi, chỗ nào tâm nó cũng biết được; hướng tâm đến Lậu Tận Minh, thì tâm sẽ biết những nguyên nhân tái sanh làm con người như thế nào, làm chúng sanh, như thế nào.

Do đó, tất cả mọi điều này, tức là chúng ta đã hoàn mãn con đường tu tập của chúng ta, bằng một pháp Như Lý Tác Ý; bằng một pháp tạo cho chúng ta có nội lực tâm, để dẫn tâm đi vào Tam Minh, để dẫn tâm đi vào Thiền Định. Còn trái lại, chúng ta không rèn luyện một pháp Như lý tác ý này, thì chúng ta không biết cách để mà dẫn tâm chúng ta vào đạo, dẫn tâm vào thiền định, thì chúng ta không bao giờ nhập định được.

(09:03) Cho nên ở đây, chúng ta là người vô sự hoàn toàn, để rồi chúng ta có đủ năng lực. Năng lực nhập các định, gọi là “Định Như Ý Túc”. Định như ý mình muốn, nhập các định theo ý mình muốn, chớ không phải tập thiền định mà có định, mà định bằng năng lực của tâm mình, để giúp cho chúng ta tịnh chỉ các hành trong thân của chúng ta, hoàn toàn để cho thân định, đó là chúng ta tu đúng.

Còn hiện giờ chúng ta ngồi thiền hít thở, hoặc là ngồi thiền định này, thiền định khác, điều đó là điều sai. Tại sao? Tại vì, chúng ta có pháp thiền định, để mà nhập, để mà tu. Ở đây, thiền định của đạo Phật, thì nó không có pháp để mà chúng ta nhập định bằng cách này, bằng cách khác, mà chúng ta có cái pháp để ly dục, ly ác pháp, tức là cái pháp lìa tham, sân, si.

Cái pháp lìa được tâm tham - sân - si thì tâm thanh tịnh. Mà chính tâm thanh tịnh, đó là Định. Vì vậy, mà muốn định nào thì nó sẽ được định nấy, chớ không phải chúng ta muốn tập thiền định mà có thiền định được.

3- TRẠNG THÁI TÂM GIẢI THOÁT

(09:54) Trưởng lão: Cho nên những gì mà các con trình bày, là coi chừng, cẩn thận. Như đức Phật nói: “Pháp ta hiện tại không có thời gian, đến để mà thấy”. Thầy xin nhắc lại, tâm có tham, biết tham; tâm không tham, biết không tham; tâm có sân, biết sân; tâm không sân, biết không sân; tâm có si, biết si; tâm không si, biết không si…​ và cứ như vậy, thì biết tâm không tham sẽ ở đâu? Sẽ sự thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm có tham thì sẽ không thanh thản, an lạc và vô sự.

Rõ ràng giải thoát hay không giải thoát. Ai tu pháp của Phật trong hiện tại đó đều biết rất rõ ràng. Chúng ta có giải thoát thì chúng ta biết giải thoát, chúng ta không giải thoát thì chúng ta biết không giải thoát rõ ràng. Chớ không phải tu mà mệt nhọc, buồn ngủ, hôn trầm thùy miên, ngồi phải là hít thở; ngồi phải là giữ tâm bằng cách này, bằng cách khác, không phải đâu.

Trên Tứ Niệm Xứ chúng ta vẫn là người thản nhiên, chớ không phải chăm chăm nhìn Tứ Niệm Xứ là sai, mà chúng ta ngồi thản nhiên, để quan sát trên Tứ Niệm Xứ đó, có những pháp ác và dục nổi lên trên đó hay không, nếu không có thì thôi, mà đã có thì quét nó ra; mà không có thì cứ ở trạng thái không có, tức là không tham, sân, si. Mà không tham, sân, si tức là trạng thái giải thoát của Phật.

Cho nên, chúng ta cứ mãi kéo dài hai mươi bốn tiếng đồng hồ, thì chúng ta thực hiện các Định và Tam Minh. Có như vậy con đường chúng ta tu rất dễ dàng, vì vậy mà bảy ngày, bảy tháng, bảy năm, đâu phải cần tu nhiều. Cho nên, thời gian mà đức Phật đã xác định, chúng ta thấy Pháp của Phật rất dễ và đơn giản.

4- CÁC PHÁP PHÁ TÂM SI

(11:35) Trưởng lão: Chúng ta làm gì để chúng ta trở thành một người hữu sự cho cực khổ chúng ta. Cho nên chúng ta sống hoàn toàn vô sự, rất là hạnh phúc, rất là an ổn. Thế rồi chúng ta lại tạo thêm những pháp này, pháp kia chi cho khổ chúng ta. Đời đã khổ, bây giờ vào tu lại khổ, còn khổ hơn nữa, phải thức khuya, dậy sớm bằng cách này, bằng cách khác.

Chúng ta thức khuya là vì chúng ta không có muốn cho chúng ta si, chớ không phải chúng ta thức khuya, để mà chúng ta tu tập thời khóa đó. Mà chúng ta muốn rằng, chúng ta sẽ phá đi cái tâm Si của chúng ta. Si là cái ngu si của chúng ta, lầm chấp cái này, lầm chấp cái kia.

Cho nên, do đó mà chúng ta muốn phá nó, vì vậy mà chúng ta thức khuya, dậy sớm, chớ không phải là vì pháp. Thức khuya để làm gì, để chọc ghẹo cho cái tâm nó còn si hay không, nếu nó si, thì nó hôn trầm, nó buồn ngủ, thùy miên. Thức khuya để làm gì, để coi nó có lười biếng đến mức độ nào không. Nếu lười biếng, thì bằng cách dùng phương pháp để diệt trừ cái lười biếng. Mà nó còn hôn trầm, thùy miên, buồn ngủ, còn thích ngủ, còn si mê, thì dùng phương pháp để phá cái si mê đó đi. Một niệm Si mà không có, thì Tham làm sao có; mà Sân làm sao có. Do cái tham ngủ, tham ăn, lười biếng mà nó trở thành si.

Vì vậy, mà chúng ta phải phá sạch cái hôn trầm, thùy miên của chúng ta. Vậy thì chúng ta thức khuya, dậy sớm với mục đích để phá nó, chớ không phải thức khuya dậy sớm để mà “tôi phải tu pháp này, tôi phải tu pháp kia”. Không phải đâu! Phải hiểu được thức khuya, dậy sớm để chọc ghẹo cho chúng ta thấy rằng, cái thân này ngu si, cái tâm này ngu si đang ham ngủ nè, đang ham ăn nè, đang thích lười biếng nè. Đó là chúng ta chọc ghẹo nó, coi nó còn lười biếng nữa không. Nếu nó lười biếng, làm sao nó thức khuya, dậy sớm được. Nó phải siêng năng, thì nó là tinh tấn; mà bây giờ nó còn si, thì tức là nó còn ham ngủ, nó còn thùy miên, hôn trầm. Bây giờ mình có phương pháp mình phá nó, nó không có thùy miên, hôn trầm, thì nó hết si. Mà nó hết si, thì ai mà chửi nó, nó có giận không? Nó không giận nữa, phải không? Vì nó không si, mà nó si thì nó mới giận. Thử hỏi, người ta chửi mình chó, mà mình tức giận, thì tức là mình đã ngu si. Còn cái người không si, thì làm sao người ta giận. Mà người ta không giận là người ta giải thoát chớ sao? Đó là phương pháp của Phật, tức là phương pháp xả tâm, ly dục, ly ác pháp như vậy.

(13:57) Cho nên chúng ta phải thức khuya, dậy sớm là để phá cho sạch tâm Si. Vì vậy, trong cuộc đời chúng ta ăn, ngủ, và độc cư, để rồi ngủ là một cái cũng khó phá chớ không phải không; vì vậy phải thức khuya, dậy sớm để mà phá nó. Nếu lười biếng mà không chịu thức khuya, dậy sớm, thì làm sao phá được cái Si. Ai cũng biết rằng, tối ngủ thẳng cẳng cho tới tám, chín giờ, thức dậy thì dễ dàng quá. Làm sao mà chúng ta phá được cái Si?

Hôm nay, trong sự tu tập, các con đã biết rõ; còn cái gì mà không rõ thì thưa hỏi, Thầy sẽ chỉ dạy thêm.

Phật tử: Kính bạch Thầy, tại sao trong lúc con đi kinh hành, mà nó cũng không phải buồn ngủ, nó cũng không phải không; nó cứ lòng vòng ở trên cái đầu con, hay là con ngồi xuống, thì nó nóng bừng trong con người của con, nó làm nóng nực ghê lắm? Cái đó có phải là ác pháp, mà phá bằng cách nào, xin Thầy chỉ dạy cho con. Nằm thì ngủ cũng không được, không phải là ngủ, nhưng mà dậy thì nó như vậy đó Thầy.

(15:15) Trưởng lão: Ở đây, con đã trình bày, những sự khi mà thức dậy, khuya thức dậy, hay là thức khuya, dậy sớm. Dậy mà sớm quá nó xảy ra những trường hợp như con vừa trình bày là trạng thái của Thọ. Vậy đầu hôm, tức là con thức khuya đó, phải không? À như vậy, xem như thế này, theo con trình bày: sau khi nằm ngủ rồi thức dậy, thì bắt đầu nó sẽ nghe, nó nóng nảy ở trong người, nó tức tối ở trong người, cái đó là khi thức dậy.

Còn bây giờ con đang thức, từ bảy giờ cho đến mười giờ con mới ngủ. Mà trong cái khoảng thời gian này, nó xảy ra cái trường hợp nào? Nó bây giờ nó buồn ngủ, nó sanh ra tức giận, nó tức tối trong người con, hoặc nóng bức ở trong người con. Đó là trường hợp: nếu mà bảy giờ con tu đến tám giờ, bắt đầu bây giờ nó buồn ngủ rồi, mà mình không có ngủ, mình ráng mình thức, thì bắt đầu nó nghe nó nóng, nó làm tức tối ở trong người con. Đó là trường hợp của con. Nó thay vì người ta buồn ngủ thì nó gục tới, gục lui, nó làm cho mình quên đi. Còn cái này khi mà nó buồn ngủ thì nó làm cho con đau đớn, hoặc là có cái trạng thái cảm thọ gì đó nóng bức, do đó cho nên con đi nằm ngủ. Như vậy con nên nhớ rằng trong vấn đề này, hoàn toàn là phải phá sạch. Cái này là ma chướng chớ không phải là điều kiện gì hết. Nó là Thọ Ấm Ma, nó hiện ra như vậy. Bây giờ, bảy giờ con tu đến tám giờ, bây giờ thì từ tám giờ đến chín giờ, khoảng thời gian này con sẽ thường bị nó. Mà không phải do con ngủ rồi con thức dậy. Bây giờ cái trường hợp này xảy ra trong khoảng thời gian này, nó muốn con đi ngủ, thì con nằm ngủ, con thấy nó cũng ngủ không được, nhưng mà một chút xíu có thể nó ngủ. Đó là nó tạo cho con cái thế thọ ấm ma, để cho con không có còn tỉnh táo để mà tu tập.

Vì vậy mà con thường xuyên, Thầy thấy hầu hết là con ở trong thất hơn là con đi kinh hành. Cho nên trong sự tu tập, nhất định con nên nhớ rằng, đọc lại trong sử của các Ni, Thánh Ni đệ tử của đức Phật ngày xưa, già bảy mươi mấy tuổi rồi, các Ngài phải đi khất thực, trèo núi mà cái bình bát nó phải lộn ngược xuống. Con biết rằng, trong thời đức Phật, các vị Ni đó quá khổ; nghĩ rằng một người già cả, trèo núi lên, xuống ở trên cái núi như vậy quá khổ. Thế mà các Ngài vẫn là kiên cường!

(17:38) Cho nên ở đây, thật sự ra trong giai đoạn này, con cũng là người lớn tuổi rồi, nỗ lực thật sự nỗ lực, phải chiến đấu, thắng cho được cái si mê này. Bởi vì, thắng cái si mê này, Thầy biết rằng, con hỏi về sự tu tập, con có những tri kiến hỏi, nhưng mà con không chiến thắng được cái thân nghiệp của con, cái tâm nghiệp của con, thì nó sẽ lôi con vào ở trong hôn trầm, thùy miên, lười biếng đó. Cho nên, vì vậy mà giờ giấc nó không được nghiêm chỉnh, mà con cố gắng nghiêm chỉnh, con bị các thọ đánh con, nó làm cho con khổ sở khó chịu. Do đó, con phải đi nằm, đi nghỉ, thế này, thế khác, làm cho con không có đúng giờ giấc nghiêm chỉnh.

Con thấy thậm chí như người tu hành, Thầy nhắc nhở, như Thầy ngày xưa Thầy tu hành, cái giường, và cái ghế ngồi, Thầy rất sợ, không dám lại gần nó, không dám ở trong thất của mình nữa, phải đi ra ngoài sân, phải đi nơi, chỗ nào xa cái nơi của mình nằm, chớ không khéo gần gũi, nó dễ cám dỗ mình lắm. Nó bắt đầu nghe nó mỏi mệt, nghe nó tức tối, nghe nó làm khó chịu, bắt đầu mình ngồi xuống, mình vừa đụng lưng vào thì nó ngủ, nó thiếp đi liền, nó rất thông minh.

Vì vậy mà mình phải lìa xa chỗ đó đi, và đồng thời mình đi vào cái chỗ nó lạnh lẽo, để làm cho mình không có còn buồn ngủ nữa. Từ đó, mình mới có thể mình chiến thắng, mình dùng các pháp mình tu, mình đem hết sức lực mình. Cho nên sự tu tập là một sự khổ đau nhất, chớ không có phải là một sự ít. Khi mình phải gặp những chướng ngại này, mình phải chiến thắng nó tận cùng, bằng một sức lực tận cùng của mình. Nghĩa là nó đau nhức như vậy, mà mình phải chiến thắng nó.

Đây Thầy nói thật sự, ăn ngày một bữa, mà các con sẽ nghe thầy Chơn Thành chiến thắng, thường thường trong giờ trưa mình ăn, tới chiều nó đói bụng. Nó đói bụng không phải nó cồn cào sơ sơ đâu, nó đau bụng. Nó muốn ăn mà nó đau tức tối ở trong này, nó chịu không có nổi, mà nếu có cái gì ăn vô là nó hết liền. Mà nhất định là không ăn, mới đầu thì thầy nghĩ là nó đau, nhưng mà sau đó thì thầy xét ra nó không phải, đây là cái nghiệp ăn của chúng ta đã thành thói quen. Rồi bắt đầu bây giờ sáng, các con biết, nó đã vượt qua buổi chiều rồi, nó còn buổi sáng.

(20:10) Hễ buổi sáng, gần tới cái giờ mà khất thực, nó đau chịu không nổi. Nó đau nghĩa là coi như mình phải ăn cái gì vào nó mới hết đau. Đó nó làm như vậy mà Thầy nói, Thầy bảo thầy Chơn Thành, nên luôn luôn lúc nào thầy cũng nhớ pháp Như lý tác ý. Một người tu sĩ đạo Phật quyết chết ở trên giới luật, chớ không có chết dưới giới luật được. Cho nên vì vậy, đúng ngọ là ăn, đúng giờ là ăn, nhất định là không ăn phi thời. Vì vậy mà “giỏi mày đói, mày đau, mày chết”, nhất định là không có sợ. Mới đầu thì nó nghĩ là như thế này, thế khác.

Cho nên vì vậy mà Thầy gọi nó là thọ ấm ma. Con ma thọ, nó làm cho chúng ta đau khổ. Vì vậy, cuối cùng thầy chiến thắng được nó. Đó thầy nhắc: “Cái thọ là vô thường, là khổ, hãy rời khỏi thân ta đi, không có được ở đây nữa”, thì lúc bây giờ thầy phải tập trung như thế nào. Bắt đầu thầy hít thở một hơi thở chậm nhẹ, và Thầy gom tâm thầy ở tại chỗ nhân trung. Thầy thấy cái hơi thở chỗ này, xuất thở ra, và hít vô tại chỗ nhân trung này. Chỉ chừng năm hơi thở như vậy, bắt đầu thầy thở hơi thở chậm, hít vô chậm, thở ra chậm, để cho cái tâm nó gom được chỗ đó. Thầy thở lại năm hơi thở bình thường, rồi thầy thở lại một hơi thở chậm, và cứ như vậy khoảng độ chừng một phút, hai phút, cho đến năm phút, tâm hoàn toàn vô, thì cái cảm thọ đau cái chỗ thượng vị của thầy, hoàn toàn nó tan biến hết, nó không còn đau.

Và trước khi mà thầy dùng hơi thở để phá đi cái thọ như vậy, thì thầy phải hướng tâm: "Cái thọ là vô thường, là khổ, không có được ở trên thân ta nữa! Cái bao tử cái thượng vị không có được đau nữa, thở bình thường!" thầy ra lệnh như vậy, rồi bắt đầu thầy gom tâm thầy hít, thở, và tâm thầy bám chặt, thì ở ngay đó đề kháng nó giúp cho chỗ thượng vị của thầy không còn đau nữa, và cứ như vậy mà thầy làm chủ được cái bệnh của thầy. Và bây giờ thì thầy hoàn toàn ăn ngày một bữa, không còn đau nữa.

(21:59) Còn khi gặp hôn trầm cũng vậy, thầy cũng dùng: “Cái tâm phải tỉnh giữa ban ngày, không còn buồn ngủ, không còn lười biếng nữa, phải tỉnh táo!” Rồi bắt đầu thầy sử dụng phương pháp năm hơi thở, đứng dậy đi kinh hành, và tập trung rất chặt chẽ ở trong những pháp đó. Cuối cùng thầy đã phá được hôn trầm.

Tất cả những sự việc này thì con phải siêng năng, và đồng thời, nếu mà ở trong cái nhà của con tu không được, con phải ra ngoài thiền đường ngoài kia, ở ngoài chùa ngoài kia. Nếu mà không được, thì con hãy ra Tổ đường, trai đường ở sau này, con tu một mình. Con đừng có nghĩ rằng con rất sợ, không có sợ ma, sợ cỏ gì hết.

Ngày xưa đức Phật nói, khi mà tâm chúng ta thấy sợ, mà cứ rúc ở trong nhà, trong cửa, thì chúng ta ra đồng mả mà ở, để cho cái tâm nó không sợ. Cho nên ở tổ đường này ở đây, có mấy cô cũng về đây để mà thọ Bát quan trai, nói: “Nửa đêm hai giờ thức dậy ra đây, thì mọi người, nhà người ta chưa có bật đèn đâu, con thấy như nó lạnh lùng, nó sợ quá. Ai cũng yên phăng phắc, chỉ có mình mình, có mấy mình ở trên cái nhà rộng rãi như thế này, rồi đi tới, đi lui nghe nó hồi hộp, nghe nó sợ.” Thầy nói, con hãy quán như thế này, hãy xét như thế này: "Sợ hãi là một điều vô thường, không có thật của tâm. Cái gì mà sợ, ai ăn thịt mình mà sợ, hãy bình tĩnh, hãy dạn dĩ, không sợ hãi nữa!" Ra lệnh như vậy, rồi cứ tập đi kinh hành, tập trung trên bước đi của mình, hoặc là ngồi thở, mình biết hơi thở mình. Nếu mà nó còn sợ nữa, thì hãy thở chậm chậm, để cho tâm nó tập trung trong hơi thở cho chặt, ôm chặt đi. Khi mà tâm nó tập trung trong hơi thở rồi, thì bắt đầu nó không có sợ nữa. Và cứ như vậy mà tu tập, lần lượt rồi sẽ đem bỏ con ra ngoài đầu mả, ngoài nghĩa địa như vậy, con không còn sợ ma nữa.

Còn bây giờ mà đem liệng con ra ngoài đầu mả, chắc là con sợ chết người. Do như vậy các con biết, trong phương pháp tu là phải rời khỏi cái thất của mình, lúc nào cũng rời khỏi nó, để rồi thực hành đi kinh hành; thực hành ngồi tu một mình, sống trầm lặng độc cư.

Các con nhớ rằng, một mình Thầy trên Ma Thiên Lãnh ở trên đỉnh núi Hòn Sơn, mà Thầy ở có một mình Thầy. Thầy còn chẳng sợ ai, thì xá gì các con tới ở đây, bao nhiêu nhà cửa người ta ở đây. Như vậy rõ ràng là vì cái trạng thái mà con đã trình bày, đó là cái trạng thái lười biếng, hôn trầm của con, cho nên nó mới sanh ra cái thọ ấm ma đó, nó làm cho con khổ sở. Vì vậy mà con đầu hàng trước nó, là con phải đi nằm; con đầu hàng trước nó là con phải bỏ cuộc; con tu hành không đến đâu.

(24:34) Vì vậy, đã quyết tu là nhất định chết với nó, chớ không thể sống. Cho nên vì vậy, con phải đi kinh hành nhiều, con phải tập luyện nhiều. Rồi bắt đầu bây giờ nó nói sao mà đi nhiều quá mỏi chân, “nhất định tao tập dần chớ không phải mày mỏi chân là nghỉ”, nhất định là con phải tập đi nhiều. Cho nên, vì sự tập đi nhiều của con, con sẽ phá được nó. Và đồng thời, con dùng năm hơi thở, đi kinh hành hai mươi bước, rồi năm hơi thở, hai mươi bước, để mà phá cho thật sạch. Đau mặc nó, tập trung thì cứ tập trung cho chặt, lúc bây giờ mình đang chiến đấu, thì mình phải tập trung, phải ức chế. Nhưng khi mà nó không có chuyện gì mà tập trung, đó là sai, ức chế.

Cho nên, năm điều kiện mà đức Phật đã dạy chúng ta an trú ở trong Tầm thiện. Cái điều kiện thứ năm đức Phật nói khi mà gặp chướng ngại pháp như thọ ấm ma. Bây giờ cái thân nó đang đau nhức, thì các con phải cắn chặt răng, để lưỡi trên nóc họng, gồng mình lên, tập trung cho chặt ở trong một đối tượng nào đó, thì lúc bây giờ đối tượng đó là cái thiện pháp chớ gì, để chúng ta đẩy lui tất cả những khổ đau đó.

Chỉ có gan dạ, lầm lì như vậy. Cho nên đức Phật nói, cái sức tận cùng chịu đựng của sanh mạng, thì cái thọ nó sẽ phá đi; nghĩa là mình phải chịu đựng cái sức tận cùng của sanh mạng của mình, thì cái thọ mình sẽ phá đi. Pháp mà An Trú Tầm Thiện thứ năm của Phật dạy, là cái pháp phải cắn chặt răng, gồng mình lên, để lưỡi trên nóc họng, chiến đấu tận cùng, thì mình mới có thể chiến thắng được thọ ấm ma.

(25:56) Cũng như cái sân, người ta chửi mình, mắng mình, người ta mạ nhục mình, tâm mình bùng bốc lên những cơn sân, thì lúc bây giờ chúng ta nhẫn bằng cách nào? Đức Phật dạy chúng ta phải cắn chặt răng, để lưỡi trên nóc họng, gồng mình lên chịu đựng. Không được la lối, không được hét mắng, không được chửi người, mà phải chịu đựng. Sau khi chịu đựng rồi, thì phải dùng tư tưởng quán xét, để rồi xả lui cái chướng ngại pháp đó, làm cho tâm chúng ta trở về bình thường rất an ổn. Tức là ức chế rồi xả.

Cũng như con bây giờ ức chế, để cho cái thọ ấm ma nó lui, rồi con sẽ xả nó. Con hiểu? Như vậy thì con mới chiến đấu được trong đường tu tập, không khéo rồi mình tu cũng dậm chân tại chỗ, không đi đến đâu cả.

5- KHI VÔ Ý TỔN HẠI CHÚNG SINH

(26:39) Phật tử: Tổ đường này, con đi kinh hành vẫn được, sao mà con thấy kiến nhiều quá nhiều, không biết con đi, con có dậm nhầm nó hay không, cho nên, con cứ lẩn quẩn ở trong thất. Còn mở điện lên sáng, thì nào là bướm, nào là bọ hung, nào…​ Cho nên con cứ lúc nào con cũng đi thầm ở trong tối vậy thôi, có chỉ trừ trường hợp con vô mùng để con ngồi tu Định Niệm Hơi Thở, thì con mới mở điện chút xíu rồi thôi. Còn cái chỗ đó sao mở ra, nào là bướm, những cái con chút chút gì nó bay phất phơ đầy hết, con không dám mở, con ra đi xung quanh ở ngoài. Con không có sợ cái gì, nhưng mà con cứ nghĩ, không biết có giẫm (đạp) hay không, như thế nào xin Thầy chỉ dạy.

(27:27) Trưởng lão: Con nên nhớ rằng, trong bước đường tu tập của con, đang ở trong sự chiến đấu gian khổ, thì mọi chúng sanh mà ở trong lòng đất, trong ban đêm con đi, chắc chắn là con sẽ đạp nó, chớ không phải không. Từ con kiến, con trùng thế nào cũng phải đạp chết nó; nhưng mà trên bước đường tu tập để tìm lấy sự giải thoát, thì những con vật đang bị vô tình mà con đạp chết nó, nó sẽ trở thành những người đệ tử của con, sau này sẽ độ nó. Bởi gì cái duyên tu tập, cái phước báu nó vô lượng, cái con vật nào mà đã lỡ con đạp, thì nó sẽ trở thành những con người sau này, con sẽ độ nó.

Cho nên, chúng sanh là con người, nếu cái duyên của người đó do tu tập, mà lỡ vô tình chớ đâu phải người ta có cái tâm sát hại đâu. Bây giờ con không có để đèn, thì cái tâm hôn trầm nó sẽ dễ tấn công con hơn là cái người có đèn. Vì sự tu tập để phá cái niệm Si của tôi, cho nên tôi mới mở đèn. Mở đèn ra có bao nhiêu niệm Si của loài chúng sanh, phải không? Chúng sanh vì si nên nó thấy ánh sáng, nó mới bu vào đó; nó mới tìm cái chết của nó trên ánh sáng của nó.

Cũng như bây giờ, mình do tâm dục, mình thấy đời tiện nghi, xe cộ này kia, máy móc đủ loại phục vụ cho đời sống mình đủ thứ vui chơi. Cho nên mình sắm sửa xe cộ, không ngờ sắm chiếc xe, chạy ra xe đụng mình chết. Đó có phải là mình như con thiêu thân thấy ánh sáng không? Đúng vậy, con thiêu thân cũng vậy khi bật đèn lên. Nhưng vì bật đèn để mà con tu tập, chớ không phải vì bật đèn để cho người ta theo dục lạc.

Nếu mà vì con bật đèn lên để con mở tivi nghe, con mở radio, con mở băng nghe, hoặc là con ngồi đọc kinh sách; con ngại rằng mình không tu tập được, thì nó không giải thoát được. Mà mình chỉ nghe, chỉ đọc, thì những con vật này nó chết thì nó tội, vì mình làm sao mà cứu được nó? Còn đằng này, con nỗ lực, con quyết định, con tu để được giải thoát, con sẽ trở thành một bậc Thánh Nhân, một bậc Thánh Ni, thì có những loài chúng sanh do thấy ánh sáng, tại nó do thấy ánh sáng mà nó nhào vô, để mà tìm cái chết của nó.

(29:36) Nhưng mà cái chết trong ánh sáng, để con thực hiện được sự giải thoát của chính con, (để) con trở thành một vị Thánh Ni. Những cái duyên mà nó chết đó: nó vì cái ánh sáng do sự tu tập của con mà nó chết, thì con xin rằng, con sẽ độ tất cả những loài vật, mà trong khi con tu tập để thành đạo. Như vậy rõ ràng là lấy từ cái phước vô lậu của con, để mà cứu độ những loài chúng sanh đang mê muội, đang bức nóng, thì như vậy không có tội lỗi gì. Chớ phải chi mà con mở đèn ra để mà ngồi chơi, hoặc để mà nghe ca hát, để mà dục lạc thế gian, để mà ăn uống, thì loài chúng sanh này chết, nó cũng vô tình nó tạo nó chết, chớ không phải thật là do con mở đèn. Bao nhiêu người mở đèn? Tại nó thấy ánh đèn, là tại nó vô, do nó ham thích, chớ đâu phải là con xui nó đâu mà con có tội.

Nhưng cũng do một cái nhân duyên, để tạo cho nó tìm một cái chết trong nhân quả của nó mà thôi. Còn cái này là nhân duyên thiện, cái nhân duyên để cho con thực hành, thực hiện được sự tu tập giải thoát, thì con nguyện tất cả loài vật ở dưới bàn chân con đi kinh hành, mà lỡ con có đạp, sau này nó trở thành những người đệ tử của con. Con sẽ độ tất cả chúng sanh này.

Cho nên, các con thấy, mỗi một vị tu sĩ trước khi ăn cơm thì người ta có ba cái nguyện - nguyện thứ nhất là ngăn ác, nguyện thứ nhì là làm tất cả việc lành, nguyện thứ ba là độ hết tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh không phải chỉ là do sự vô tình của mình giết hại, mà còn tất cả chúng sanh còn mang lốt chúng sanh, chúng ta nguyện độ hết. Nghĩa là làm bằng bất cứ mọi cách, giúp cho tất cả chúng sanh được sự giải thoát hoàn toàn như đức Phật đã dạy, thì như vậy con có xá gì. Còn bây giờ con cứ chướng ngại, như vậy tâm từ bi của con nó ở trong cái trạng thái yếm thế, cái trạng thái không thực hiện được Phật pháp.

(31:31) Cho nên, bây giờ trong khi Thầy đến đây, nếu mà Thầy không mở đèn ra Thầy đi kinh hành, một lúc sau nó sẽ lười biếng đi, nó sẽ tối quá, hay hoặc thế này, thế khác. Thầy bật đèn lên, thứ nhất nhìn thấy hình ảnh ông Phật ngồi, Thầy tinh tấn, Thầy nỗ lực, Thầy tu, nó giúp cho Thầy tinh tấn hơn nữa. Thứ hai nữa, thì cái ánh sáng nó giúp cho Thầy, thoải mái, dễ chịu, tỉnh táo hơn, nó không còn bị hôn trầm, rồi siêng năng tu tập. Chớ đừng có sống ở trong bóng đen, rồi nó sẽ làm theo cái bóng đen đó, nó sẽ làm đen theo cái tâm của mình mất đi.

Cho nên ở đây, đúng lúc thì chúng ta mở đèn ra tu, mà không đúng lúc, hết giờ thì chúng ta tắt đèn. Cho nên, nhiều người, người ta nhìn thấy trong cái thất của con, không biết con tu, hay là không tu. Người này nói tu, mà không có chứng nghiệm được cái sự tu, luôn luôn lúc nào cũng tối đen. Như vậy tự con đã làm cho người ta khởi nghĩ, mặc dù con siêng năng con tu, nhưng mà đã biến người ta trở thành nghĩ oan cho con là người ta sẽ có tội, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, là cái bóng đen, nó sẽ giúp cho con có những cái gian xảo ở trong đó. Bởi vì cái bóng đen, nó sẽ giúp cho con “bây giờ mình lén ăn ai thấy”, phải không. Bật đèn lên người ta thấy sao, nhiều cái tự mình mình dối mình nữa, rồi nhiều cái nữa.

6- TU VÌ LỢI ÍCH CHO CHÍNH MÌNH

(32:36) Trưởng lão: Cho nên, làm cái gì thì phải thanh thiên, bạch nhật. Bật đèn lên đàng hoàng, tu tập đúng giờ, hết giờ thì tắt ngủ. Hễ giờ đi ngủ là ngủ, còn giờ thức là thức, mình phải làm rõ. Cho nên, có một câu hỏi của một vị thầy ở đây hỏi là: “Có người tu trong ánh sáng, nhưng có người lại tu trong bóng đêm. Vậy thì, vừa tu trong ánh sáng, vừa tu trong bóng đêm. Vậy thì, những người nào đúng, những người nào sai, xin Thầy dạy cho chúng con.”

Thầy nói người tu trong bóng đêm, đã bóng đêm tức là đen tối, mà đen tối thì phải có sự sai trái trong đó, không thể nào chắc chắn. Nhưng mà người ta vẫn lý luận trong cái đúng người ta, chớ sự thật người ta có sự không đúng. Người đúng thì phải luôn luôn minh bạch, phải rõ ràng, làm cho mọi người không nghi ngờ mình. Vậy thì người mà dùng ánh sáng, là đúng không? Tới giờ ngủ mà không ngủ, còn bật đèn, người này rõ ràng mượn ánh sáng, để nói rằng tôi siêng năng tu. Nhưng mà sự thật ông bật đèn ông ngủ, chớ ông chưa phải là tu. Người này mượn ánh sáng mà gian dối, nghĩa là suốt đêm Thầy thấy cái người đó bật đèn, tới giờ ngủ không tắt.

Như vậy rõ ràng ông này bật đèn ngủ, ngủ quên, phải không? Còn cái người mà không mở đèn, không biết ông ta giờ nào tu, giờ nào ngủ, cũng chẳng biết. Như vậy là rõ ràng có sự gian dối, do hai cái này gian dối. Người biết sử dụng lúc mà tu thì bật đèn, khi đi ngủ là tắt đèn, thì người này giờ giấc ngủ rõ ràng cụ thể. Mặc dù tới giờ ngủ, mà ông không ngủ, ông vẫn tắt đèn.

Như vậy rõ ràng ông giữ đúng cái giờ giấc, rõ ràng là người này tốt, phải không. Còn cái người này trong cái giờ ngủ, thì ông cũng để đèn, thì rõ ràng là ông này để đèn như vậy là ông đã cái giờ mà ông tu thì ông cũng ngủ. Cho nên, ông để đèn làm cho người ta lầm, tưởng ông bật đèn ông tu. Còn cái người tối này, thì ông ta làm cái chuyện mờ mịt ở trong này đủ thứ hết, thì không thể nói được rồi.

Cho nên, cái người mà dùng ánh sáng luôn, là cái người này cũng sai, mà cái người dùng bóng tối thì cũng sai. Chỉ có người biết sử dụng lúc nào sáng, lúc nào tối, thì cái người đó mới đúng. Thầy có trả lời trong một cái cuốn nào đó rồi, chớ không phải không đâu. Trong mười tập “Đường Về Xứ Phật”, đã có một câu hỏi đó. Tại vì, người đó ở đây tu hành, tại sao thấy có một thầy đó, lại luôn luôn lúc nào cũng là ở trong bóng tối, không có bật đèn. Cho nên ông ta nghi ngờ, không biết ông này tu cách nào đây? Cho nên, ông mới đến ông xem xét, quả đúng ông này ngủ khò khò. Giờ này mà ông ta ngủ, ông ta tưởng là không có để đèn như vậy, thì người ta nói ông tu, đúng là ông này có giấu rồi.

(35:13) Cho nên, ông mới hỏi Thầy. Còn một cái người để đèn, tới chừng đúng mười giờ đi ngủ, mà sao thấy ông này tới mười một giờ mà còn để đèn. Ông này mới đến thất, rõ ràng là ông này đã ngủ, rồi bắt đầu ông này mới tám giờ, là ông này đến thất xem coi ông này có ngủ hay không, đến thất thấy ông này tám giờ, ông đã lên giường ông ngủ rồi, không có tu gì hết, mà ông để đèn. Thiên hạ nói ông này tu dữ tợn lắm, tu mười hai giờ mà còn tu. Rõ ràng là ông này xảo, dùng đèn để mà xảo người ta.

(35:48) Trưởng lão: Ở đây, thật sự mình tu là giải thoát cho mình, chớ không phải giải thoát cho người khác. Mình tu không phải mình tu cho người khác được, mà mình tu cho mình. Tại sao mình lại lừa đảo mình, mình lại lừa đảo người khác, mình lại lường gạt người ta? Mình tu cho mình mà, giải thoát cho mình mà. Thầy đã nói rằng, cái khả năng tôi tu từ bảy giờ đến tám giờ. Tám giờ đến năm giờ sáng tôi tắt đèn, cả thời gian này tôi ngủ, ai rầy mình. Tôi tu dần dần tôi tăng lên chớ, nghĩa là bây giờ tôi chưa quen, bảy giờ tôi tu tới tám giờ tôi ngủ. Rồi tám giờ tôi ngủ cho tới năm giờ sáng, tôi thức dậy, từ năm giờ cho đến sáu giờ tôi tu. Tôi tu một đêm một buổi, buổi tối tôi tu một giờ, khuya tôi tu một giờ, tôi đâu có tu nhiều.

Nhưng mà một tuần sau, có lẽ là từ bảy giờ tôi tu tới chín giờ, hay bảy giờ, đến tám giờ rưỡi, tôi tùy theo tôi tăng dần lên, thì người này thật sự là người quyết tu. Thầy đâu có bắt buộc phải theo cái thời khóa ở đây, chưa bao giờ quen, mà bây giờ từ bảy giờ đến mười giờ mới ngủ, thì cái ông này chịu sao nổi, cho nên vì vậy mà tập dần. Đến đây xin Thầy, con có gì con chưa có quen, xin Thầy cho con bảy giờ con thức cho tới tám giờ, con nỗ lực con tu trong khoảng này. Còn khuya Thầy cho con năm giờ con dậy cho đến sáu giờ, con tu đến sáu giờ.

Thà là mình thành thật mình tu ít, hơn là mình giả dối mình tu nhiều. Mình ở đây tu không danh, không lợi, không cầu người ta khen đâu, mà chỉ cầu tìm cho mình được sự giải thoát chính bản thân của mình, các con hiểu. Cho nên ở đây, phải nỗ lực thật sự, tu hành thật sự, đúng lúc nào mà tu lúc ấy.

Cho nên, người mà đi kinh hành nhiều, mà đi vùn vụt, Thầy nói cũng sai. Người mà đi kinh hành nhiều, mà đi chậm, Thầy nói cũng sai. Đi thanh thản tự nhiên, an lạc, đi đúng cách, đi không tập trung, không gò bó, tức là đúng. Khi mà Thầy cho mấy con đi, Thầy quan sát, Thầy xem. Rồi hôm sau, Thầy quan sát Thầy xem. Thầy theo dõi các con, Thầy sẽ biết cách thức các con tu đúng hay tu sai, Thầy chỉnh đốn lại. Các con cố gắng, các con tập đúng! Mà giờ giấc, các con sẽ tu tập đúng theo cái đặc tướng của mình, theo cái khả năng của mình.

Thầy không bắt buộc các con phải thức khuya nhiều. Thầy không bắt buộc các con phải dậy sớm nhiều, mà các con phải đúng với điều kiện mà các con đặt ra, là các con phải tu tập đạt được chất lượng trong giờ giấc các con tu. Vì mỗi phút, mỗi giây mà chất lượng, các con tu là kết quả của sự giải thoát của các con đúng thật. Còn bây giờ tu nhiều giờ, mà trong những giờ đó, các con lén lút ngủ này kia, các con thêm tội dối trá, càng tội thêm nữa. Cho nên phải tu đúng cách.

Đó thì hôm nay, Thầy nhắc nhở hết, tất cả các sự thực hành vì lợi ích cho mình, chớ không phải cho ai hết. Mình nói (sự thật ra) mình tu để cho mình chấn hưng lại Phật giáo, làm tốt lại Phật giáo. Sự thật ra, điều đó thật sự đức Phật không cầu đâu. Đức Phật không cầu đâu. Nếu mà đức Phật cầu, đức Phật đến đây đảnh lễ mình để cho mình tu, là tại vì mình tu cho đạo Phật. Còn đức Phật nói rằng: “Ông tu cho ông, chứ không phải ông tu cho tôi, mà bảo tôi thị hiện thần thông cho ông xem. Ông có theo tôi được thì ông tìm sự giải thoát, mà ông không theo tôi được thì thôi. Chứ đâu phải là tôi bắt buộc ông phải sống theo đời sống giới luật của tôi, sống theo phạm hạnh để tôi thực hiện thần thông cho ông theo đời sống đó đâu”.

Vì chính đời sống đó mới thực hiện sự tu tập, vì chính sự tu tập đúng, để cho các con có kết quả giải thoát nơi thân tâm của các con, các con mới theo Thầy, chớ không phải tu để mà có hình thức. Cho nên chúng ta tu ở trong cái đặc tướng, cái khả năng của mình, làm được giờ nào chúng ta tu, dần dần chúng ta tăng dần lên, quyết chiến đấu, chiến thắng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tâm không phóng dật. Đó là cái mấu chốt mà chúng ta sẽ đạt được. Và đạt được cái mấu chốt đó là do chúng ta ly dục, ly ác pháp trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, để chúng ta thực hiện Thiền Định. Như vậy chúng ta mới thấy được sự giải thoát của đạo Phật thật sự.

7- TUỲ LÚC ÁP DỤNG ỨC CHẾ HOẶC XẢ TÂM

(39:27) Trưởng lão: Từ bước đầu chúng ta tu ít giờ chớ không phải chúng ta tu nhiều. Nhiều khi chúng ta tu nhiều, mà cái sức chúng ta không thể kham nhẫn, không thể chịu đựng nổi, làm cho chúng ta sanh ra bệnh tật, làm cho chúng ta khó khăn khổ sở, thì chúng ta đã tu sai, chúng ta đã có ức chế làm cho khổ mình.

Cho nên, đối với Pháp của Phật, có lúc chúng ta phải ức chế tận cùng để chiến đấu, nhưng chúng ta hoàn toàn phải sống xả tâm, chớ không được ức chế.

Tại sao Thầy dạy các con, các con thấy lạ, tại sao Thầy dạy cái pháp để ức chế quá độ, mà có pháp lại không cho ức chế? Đúng, ức chế để mà đối với cái ác pháp nó đến, nó xâm chiếm, nó làm cho chúng ta phải điêu đứng. Bây giờ đầu Thầy nhức, nhức đến mức độ chịu không nổi, phải đi nhà thương nè, phải uống thuốc nè, phải trị bằng thuốc tê nè, phải làm cho nó đừng có đau nữa nè. Mà trái lại ở đây, Thầy chỉ cần thiết chúng ta, chỉ cần thiết tu đúng, ức chế đúng lúc, để mà hoàn toàn chịu đựng được sự đau khổ này. Bắt đầu Thầy cắn chặt răng, Thầy chịu đựng: “Bây giờ cái thọ là vô thường, hãy rời khỏi thân ta”. Bắt đầu bây giờ tâm tập trung vào hơi thở ngay tụ điểm, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô. Ngay đó Thầy hít thở chầm chậm, tập trung gom vào đó. Thầy không có lưu ý đến cái đầu Thầy nhức nữa, mà Thầy chỉ biết toàn hơi thở lưu xuất ra, vô; và đồng thời, cái tâm Thầy bám chặt trong hơi thở, cái đầu Thầy hết đau liền tức khắc. Đó là cách thức của Thầy làm chủ được cái Thọ mà. Tại sao chúng ta không làm được điều này?

Cho nên vì vậy, mà lúc bấy giờ chúng ta mới ức chế, còn khi bình thường thì chúng ta không được quyền ức chế, không được làm cho nó hữu sự, nghĩa là chúng ta sống thản nhiên thanh thản. Bởi vì thân tâm chúng ta, thọ không đau, không đớn, mà giờ chúng ta phải gồng mình, lại tập trung trong hơi thở, phải hít thở như vậy để làm gì, có ích lợi gì không? Tại vì cái đầu tôi đau, tôi phải tập trung trong hơi thở, để cho cái tâm tôi nó không có nhớ cái đau nữa. Vì vậy mà cái đau trên đầu tôi nó mới hết, các con hiểu điều đó.

Cho nên vì vậy, bây giờ chúng tôi bị buồn ngủ, chúng tôi phải tập trung trong hơi thở, hít thở cho chậm, thậm chí chúng tôi phải nín hơi thở. Khi mà tôi xả ra rồi, nín hơi thở, cho tất cả cái thân tôi nó bất động, nóng bừng lên tất cả hết. Bởi vì tôi nín hơi thở là nó nóng bừng lên. Cho nên, khi đó thì tôi không còn buồn ngủ nữa. Đó là cách thức chúng ta phá những cái đó, chúng ta phải ức chế, rất là ức chế. Nhưng mà sau khi đó rồi, chúng ta đã hoàn toàn thấy nó không còn buồn ngủ, thì chúng ta ngồi chơi, chứ chúng ta đâu phải dùng cái pháp đó hoài. Các con thấy không, biết lúc thì chúng ta ức chế để làm chủ, mà đến lúc bình thường, thì tâm chúng ta là người vô sự hoàn toàn, chúng ta giải thoát chớ.

(41:51) Cách thức tu tập của đạo Phật là vậy, chớ không phải lúc nào chúng ta cũng ức chế nó đâu. Ức chế nó để làm gì, nó có giải thoát cho chúng ta đâu. Đó, phải hiểu được cái phương pháp tu tập, phải hiểu được cách thức áp dụng các pháp. Và đồng thời, khi chúng ta tu tập như vậy, thì chúng ta phải biết áp dụng vào đời sống của chúng ta hằng ngày. Hằng ngày chúng ta đâu có hoàn toàn là không tiếp duyên. Đức Phật ngày xưa, đức Phật đâu phải không tiếp duyên. Đức Phật đi xin ăn, đức Phật đâu có chọc ghẹo ai đâu. Nhưng mà thấy đức Phật ôm bình bát đi xin ăn, (có người) nói: “Ông làm biếng, ông không cày ruộng như tôi nè có ăn, ông đi xin làm sao ông có ăn?” Người ta chỉ nói lời nói đó thôi, mà nếu mình còn chấp cái ngã thì tức tối lắm, phải không?

Do đó đâu có nghĩa cái pháp nó đứng yên để cho mình thanh tịnh đâu, mình đi ra là mình đụng người ta, người ta sẽ nói cái này, người ta sẽ nói cái khác, dù người ta vô tình thôi. Thầy nói ví dụ, giờ mình đi ra, mình đi xin đi, vô tình thôi, người ta đi, người ta quẹt mình cái rột, rồi người ta quay lại người ta chửi mình nữa. Người ta đụng mình, chớ không phải mình đụng người ta đâu, người ta quay lại người ta chửi mình: “Ông đui sao, ông không thấy tôi sao?” Đâu có phải pháp nó đứng yên đâu, thanh tịnh cho mình đâu, mà mình đi ra thôi, thì các pháp nó sẽ đụng mình, và đồng thời, nó sẽ chửi mắng mình. Khi đó, chúng ta phải áp dụng được sức tỉnh thức của mình, chớ không khéo người ta nói mình đui hả. Rõ ràng họ đụng mình mà họ còn chửi mình đui nữa, thì có phải mình tức không?

Cho nên, do các pháp ác nó đến như vậy, thì chúng ta thản nhiên, thanh thản được, là chúng ta biết áp dụng “à đây là ác pháp rồi!”. Đây là ác pháp thì tâm phải thanh thản, an lạc. Tâm phải như cục đất, không có tham, sân, si, không có giận. Người ta là người thế tục, người ta phải sống trong ác pháp. Còn mình là người tu, là phải sống trong thiện pháp, không có được giận kẻ ác pháp. Cho nên cuối cùng ta là giải thoát.

(43:27) Cho nên các con, vừa là tu tập ở đây, mà cũng vừa áp dụng vào đời sống của mình, chớ không phải là biết cái thời tu của mình, mà không áp dụng vào đời sống của mình. Thì cứ tu đi, “à tôi niệm Phật”,“tao mắc niệm Phật, chớ không tụi bay chết với tao!” Có nhiều người đang gõ mõ niệm Phật, đang tụng kinh, mà nghe tôi tớ, hay nghe con cái đánh lộn nhau (thì): “tao mắc tụng kinh, chớ không tao xuống, tao đập tụi bay chết hết”. Như vậy rõ ràng là tụng kinh để làm gì đây?

Cũng như mình tu tập, mình tu tập ở trong thất, mình tu tập đi kinh hành, phá hôn trầm, ly tham, sân, si hay quá; nhưng mà ra đụng người ta, thì ăn thua đủ thiên hạ, thì tu tập để làm gì? Tu tập, tức là phải thực hiện cái Đạo Đức không làm khổ mình, khổ người. Áp dụng vào, người ta chửi mình, mình vẫn vui vẻ, như vậy rõ ràng là mình biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Đó là vừa tu tập, mà vừa áp dụng vào đời sống, để đem lại sự hạnh phúc cho mình, cho người, thì như vậy mới có lợi ích chớ.

Phải tu tập như vậy, nó mới có giá trị của một con người. Đó là chúng ta đi đúng vào con đường của đạo Phật. Tu tập như vậy, biết áp dụng: lúc ức chế, lúc không ức chế. Mà lúc không ức chế, lại ức chế là sai. Còn lúc ức chế lại không ức chế, để mình đi theo cám dỗ của tâm dục lạc của mình, bằng cách này, bằng cách khác (cũng là sai). Cho nên các con nhớ những lời Thầy nói đây, không chỉ trích một người nào, mà dạy các con tu tập đúng, để chúng con làm chủ được sự sống chết.

(44:36) Thầy đem hết lòng thương yêu của Thầy để dạy các con. Những cái sai của các con, các con cần phải sửa, mình được thấy lỗi của mình, thì mình sửa. Mình thấy cái lỗi của mình, mình thấy mình không lỗi, thì đây là những kinh nghiệm để cho mình, làm cho mình, đừng có làm cho người khác lỗi.

Cũng như bây giờ, con thấy con ở trong thất, con nỗ lực con tu, mà con nghĩ lòng thương yêu của mình, con không dám bật đèn. Bây giờ Thầy giải thích cho con rõ, con không dám bật đèn mà con để cho những người khác, người ta phải nghĩ oan cho con thế này, thì tự con đã làm khổ người khác rồi. Bắt đầu bây giờ con nghĩ rằng, những con vật đó nó vô tình, thật sự nó vô tình. Nó thấy bóng đèn đó, nó đi vào, nó đi tìm cái chết của nó. Nếu con không bật đèn, thì người khác bật đèn, nó cũng chết vậy? Phải không? Do nó chết ở dưới cái đèn của con, còn có lợi ích hơn là nó chết ở trong bóng đèn của người phàm phu. Bây giờ nhà con không bật đèn, nhà kia bật đèn, mà nhà kia không tu, họ bật đèn, thì những con vật chết đó, ai cứu độ nó?

Còn bây giờ con bật đèn cho nó chết, là tại vì nó chết, chớ con đâu có kêu nó vô. Vô tình, nhưng mà nó chết trên cái sự, vì cái sự tu tập của con, thì nó được phước báu hơn chớ, con phải hiểu cái chỗ đó chớ? Cho nên, vừa là làm cho người khác không nghi ngờ mình, mà vừa là đem lợi ích cho chúng sanh.

8- TẦM QUAN TRỌNG CỦA KINH PHÁP CÚ

(46:06) Trưởng lão: Phật Pháp thì nó chỉ có Tạng kinh của Phật, rất ít chớ nó không có nhiều. Bởi vì, trong 49 năm thuyết Pháp độ sanh, trong thời đức Phật mà thuyết giảng dạy cho người tu đó, thì hầu như đức Phật không có viết kinh sách. Mà ai có điều kiện muốn tu, đến xin đức Phật, thì đức Phật giảng ngay bài kinh đó, rồi về thực tập lời dạy đó thôi, chớ không có ghi chép. Cho nên, kinh sách của đức Phật, sau này các Tổ kết tập lại thành kinh sách. Cho nên, khi mà kết tập lại đầu tiên, kết tập lại không có viết nữa, chỉ đọc lại cho tất cả chúng Tỳ Kheo đó nghe rồi thôi. Do đó, người ta cái nhớ, cái không nhớ, chớ không phải toàn bộ là nhớ hết đâu.

Vì vậy mà sau này, thì kết tập lần thứ hai, thì nó mới viết thành kinh sách. Cho nên, người ta thêm rất nhiều, rồi cái số mà các Tổ kiến giải viết ra thành Tạng kinh sách đó, thì thôi cả đống kinh sách như rừng. Cho nên, làm cho chúng ta không biết đường đi đâu. Vì vậy mà bây giờ, chúng ta trở về những bài Pháp đầu tiên của đức Phật thuyết giảng cho các vị cư sĩ, cũng như các vị Tỳ kheo Tăng và Ni trong cái thời đó, thì cái số kinh đó rất ít, nó chỉ có một số ít thôi, chớ không có nhiều.

Do vì vậy, mà chúng ta đọc những bài kinh đó, chúng ta mới thấy thật sự, nó cô đọng lại cho chúng ta biết. Bộ kinh đó gọi là bộ “Kinh Pháp Cú”, những lời ngắn gọn, mà hầu hết là những lời ngắn gọn đó là dạy đạo đức - nền Đạo Đức của Đạo Phật. Sau này, quý vị sẽ đọc được “Kinh Lời Vàng”, là bộ “Kinh Pháp Cú” đó, các vị sẽ thấy được, đức Phật chỉ định cho chúng ta sống, ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.

Hằng ngày, chúng ta sống trong nền Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả, để chúng ta không làm khổ mình, khổ người, thì đó mới chính là đạo Phật. Bộ Kinh Pháp Cú nhắc nhở cho chúng ta sống được giải thoát, gọi là giải thoát của đạo Phật là không làm khổ mình, không làm khổ người, thì cái này mới là giải thoát. Chứ không phải giải thoát ở chỗ thiền định, hoặc là giải thoát ở chỗ này, chỗ nọ kia bằng cách là cúng bái, tụng niệm, hay ngồi thiền, hay niệm chú. Tất cả những cái này là người sau họ đặt. Cho nên chúng ta tu hành mà không đúng cách, thì chúng ta vẫn thấy không giải thoát đâu.

(48:13) Vì vậy mà bây giờ, đọc lại những kinh sách mà căn bản nhất của đức Phật là Kinh Pháp Cú, do từ “Pháp Cú” đó mà chúng ta suy ra, chúng ta thấy thiện Pháp là đạo đức làm người. Nếu một người được học xong rồi, mà áp dụng vào đời sống của mình, là người đó có đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Người ta chửi mình không biết giận đâu, mà không biết giận là giải thoát chớ gì. Thấy vật đó mình ham muốn, thì chúng ta ngăn chặn được tâm ham muốn. Ham muốn là đau khổ, chúng ta không ham muốn. Chúng ta làm, chúng ta siêng năng làm, làm là nó sẽ có, chứ không phải ham muốn với một cách không có mà lại ham muốn. Đó là những điều kiện mà đạo Phật dạy cho chúng ta.

Do đức Phật chỉ định cho chúng ta biết rằng, tất cả mọi sự khổ đau, và hạnh phúc của con người là chính do tâm của người đó, chớ không ai hết. Bởi vì, tâm làm thiện, thì người đó sẽ được hưởng hạnh phúc; mà tâm làm ác thì người đó sẽ khổ đau, có vậy thôi. Cho nên, chúng ta biết được như vậy để mà chúng ta triển khai, những Pháp của đức Phật cơ bản nhất của nó, là về phần Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả. Nhân quả, tức là hành động thiện thì chúng ta hưởng được phước, mà hành động ác thì chúng ta thọ lấy quả khổ. Do dạy người ta biết được cái thiện - cái ác, vì vậy mà người ta biết được, người ta không có làm điều ác, người ta sống thiện.

Đó là những điều mà tu sĩ hỏi, thì Thầy sẽ chỉ cho chúng ta biết nghiên cứu. Đừng có nghiên cứu cái kinh sách mà cả rừng này, nó không có đem đến cho chúng ta lợi ích, mà nhiều khi nó làm cho chúng ta lạc lối đường nữa. Cho nên ở đây, chúng ta muốn đi vào đạo Phật, là đi vào ngay bộ Kinh Pháp Cú. Thầy muốn ca ngợi bộ Kinh Pháp Cú là tại vì nó dễ hiểu, và nó ngắn gọn. Nó nằm ở trong nền đạo đức của con người, như chiếc áo của các cư sĩ, thì hầu hết là chúng ta phải sống đạo đức. Vì chúng ta một loài động vật, là một loài động vật như muôn loài động vật khác, nhưng chúng ta hơn chúng là chúng ta có đạo đức.

Nếu một, hai người đó đánh lộn sân giận với nhau, thì hai người này là con thú vật, chứ không phải là con người, vì con người thì không thể nào đánh lộn, không thể nào chửi lộn như vậy được. Nó có cái đạo đức, nó không làm khổ mình, khổ người, thì nó không thể nào là con thú vật. Cho nên, Đạo Đức của đạo Phật, là Đạo Đức Nhân bản, nó thoát ra khỏi cái bản chất của thú vật. Con người chúng ta, hiện còn đang mang bản chất của loài thú vật. Vì vậy mà chúng ta không học đạo đức, chúng ta là con thú vật. Con thú vật, nó có thể trở thành ác thú, nó có thể giết hại biết bao nhiêu loài thú khác. Con người độc lắm. Cho nên, nó là con ác thú.

9- NĂM ĐIỀU THIỆN ĐỂ LÀM NGƯỜI

(50:55) Trưởng lão: Cho nên, đức Phật xác định: làm con người rất khó! Khó là vì con người phải có năm điều thiện. Hiện giờ chúng ta thấy con người rất đông chứ gì, đâu có khó đâu, người ta sanh con người rất nhiều chứ gì, nhưng con người mà sống năm điều thiện không có. Người mà không sát sanh, chúng ta thấy không có; người mà không trộm cắp, chúng ta thấy không có (người mà không tham lam đó); người mà không nói vọng ngữ, chúng ta thấy không có; người mà không tà dâm, chúng ta thấy không có; người mà không uống rượu, không say sưa nghiện ngập, thì rất là hiếm.

Vậy mà tìm được con người năm cái điều thiện này, mà là con người thật sự đó, thì chúng ta không thấy có trên hành tinh, trên thế gian này, rất khó tìm con người đó. Cho nên, đức Phật nói: “Khó, (làm) con người khó, khó như con rùa mù tìm bộng cây giữa biển”, có đúng không? Bây giờ chúng ta thấy con người quá đông, nhưng mà ai sống được năm điều thiện này? Không! Như vậy làm con người quá khó! Vậy thì hôm nay, chúng ta muốn làm con người, thật sự là con người, để thoát ra cái bản chất của loài động vật, thì chúng ta hãy sống năm cái điều lành này.

Vậy thì năm điều lành này, nó là tiêu chuẩn, để chúng ta xây dựng được Đạo Đức Làm Người, từ đó, năm điều lành này mà chúng ta sống đúng, thì chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Từ năm cái điều lành này, chúng ta suy ra, chúng ta trở thành con người đạo đức, Đạo Đức Nhân Bản. Nhân bản, tức là cái gốc làm người mà. Cho nên, đạo đức này nó mới giúp chúng ta là con người, mới thật sự con người, không khéo con người của chúng ta, sẽ trở thành con thú vật.

10- HỌC ĐẠO PHẬT LÀ HỌC ĐẠO ĐỨC

(52:10) Trưởng lão: Hôm nay học đạo Phật là chúng ta phải học Đạo Đức, chớ đâu phải nói Nho giáo mới có đạo đức. Đạo đức của nho giáo, là đạo đức phong kiến: Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín, Tam Cang, Ngũ Thường. Còn đạo đức của đạo Phật, là đạo đức không làm khổ mình, khổ người, Đạo Đức Nhân Bản. Bất kỳ giai cấp nào trong xã hội, đều thực hiện được cái đạo đức này. Còn đạo đức của Nho giáo, là chỉ thực hiện cho giai cấp của Sĩ Phu, chớ còn con người bình dân của chúng ta giữ không nổi, vì chúng ta không thể giữ được.

Còn trái lại, Đạo Đức của đạo Phật, mọi con người, dù là người cùng đinh, người tôi tớ, người hèn mạt nhất trong thế gian này vẫn sống vì mang lại lợi ích cho họ. Nếu họ không sống lợi ích cho bản thân họ, thì họ trở thành một con thú vật. Cho nên, đạo đức này là Đạo Đức của đạo Phật, để giúp cho con người giải thoát. Vì vậy mà đạo Phật gọi là đạo giải thoát, mà giải thoát bằng cái gì - bằng trí tuệ. Cho nên đức Phật nói: "trí tuệ ở đâu, thì đạo đức ở đó; đạo đức ở đâu, là trí tuệ ở đó". Người có trí mà không có đạo đức, thì người đó không phải là người có trí.

(53:12) Một người có bằng Tiến sĩ, có học thức giỏi, có hiểu biết kinh điển thông suốt, mà sống hoàn toàn không đạo đức, là người đó không có trí tuệ. Người đó chỉ nhẩm lại, nhai lại đờm dãi, tích lũy lại sự hiểu biết một cách rất cạn cợt của thế gian, không có đạo đức, không có giải thoát cho mình. Cho nên, đạo Phật rất đơn giản, rất dễ dàng, vì chúng ta sống đúng đạo đức là chúng ta sẽ giải thoát.

Cho nên ở đây, Thầy nói có tu hành gì đâu. Như nảy giờ Thầy nói, chớ giờ chúng ta bắt buộc mình phải tập trung trong hơi thở, rồi phải đi kinh hành, phải tập trung cho biết đi, cho biết đứng, làm cho chúng ta lại thêm những công việc làm. Thành ra chúng ta, thay vì chúng ta được nghỉ ngơi, phải được an ổn, phải được khỏe khoắn; bây giờ chúng ta lại tu tập thêm những pháp làm cho chúng ta phải quá nhọc nhằn. Chúng ta chỉ cần giữ tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự. Phải không? Thấy nó thanh thản, an lạc, vô sự, thì nó không có chướng ngại pháp. Nó không ác pháp, thì nó là Đạo Đức - Không Làm Khổ Mình - Khổ Người.

Bây giờ, có người khác chửi mình, giờ mình mới có đủ chuyện mình làm việc nè. Bây giờ người ta chửi mình, thì mình đừng có giận. Như vậy mình không giận, tức là mình đạo đức chớ gì. Mình không chửi lại người, tức là mình đâu có làm ác pháp, mà mình không làm cho mình giận, thì tức là mình đâu có ác pháp, còn người ta chửi mình mà mình tức giận, tức là mình mang ác pháp, thì rõ ràng là mình đang ở trong ác pháp.

Do sự tu tập của đạo Phật bằng trí tuệ, vì trí tuệ hiểu biết, cho nên chúng ta không giận. Cho nên “đạo đức ở đâu thì trí tuệ ở đó; mà trí tuệ ở đâu, thì đạo đức ở đó”. Người có trí tuệ sao lại có giận. Vậy thì quý vị bây giờ, dầu có đỗ bằng Tiến sĩ, có học thức giỏi, có thông Tam Tạng kinh điển, mà còn cơn sân, thì quý vị là người không trí tuệ.

Còn Thầy là người không biết gì hết, ngu đần, Thầy không có cấp bằng gì hết, nhưng mà người ta chửi Thầy, Thầy không giận, tức là Thầy người có trí tuệ. Bởi vậy đức Phật xác định “trí tuệ ở đâu, là đạo đức ở đó; đạo đức ở đâu, là trí tuệ phải có ở đó”. Đó là một cách cụ thể của đạo Phật. Vì vậy mà cuộc đời sống của người đó giải thoát hoàn toàn.

Cũng như bây giờ, giờ phút này chưa có nấu cơm, lát nữa Thầy đói, mà Thầy vẫn thản nhiên, không có lo lắng gì hết, thì tức là Thầy có trí tuệ. Còn bây giờ, nó đói Thầy phải lo, bây giờ phải lén đi ăn cắp bụi củ mì, hay nhổ khoai lang, hay bắt con gà của họ để về ăn. Như vậy rõ ràng, Thầy là người không có vô sự, Thầy là người có ác pháp, và Thầy là người trở thành tham lam. Từ trong ý Thầy chưa làm, nhưng mà Thầy là một người tham lam rồi. Như vậy rõ ràng là ác pháp trong đó, mà Thầy bây giờ có bắt con gà cho Thầy ăn mập béo đi nữa, hoặc là nhổ bụi củ mì, hay lén lấy của người ta một lít gạo để về nấu, mình ăn, thì cái người này có trí tuệ không? Không có trí tuệ.

Bây giờ Thầy nói đây là đơn giản: bây giờ người đó họ ngồi đây, họ suy nghĩ là “mình phải mở nhà máy, kinh tế làm cái này, cái kia cho có tiền bạc”. Như vậy là người đó có trí tuệ không? Đâu có trí tuệ đâu, người đó còn tham đắm, cho nên đày ải họ phải khổ sở. Họ phải nghĩ, bây giờ phải làm như thế này, như thế này, để mà thu lợi, bằng cách này đóng thuế nhà nước như thế này. Làm cái này, phải lợi như thế này, bóc lột nhân công như thế này, để trả lương ít như thế này, đem lại lợi tức nhiều cho mình nè, để mai mốt mình cất nhà lầu, nhà đài, xe cộ. Tất cả những cái này, để làm lợi ích cho mình.

(56:09) Như vậy, rõ ràng là người này tốt hay xấu, người này có trí tuệ không, “người này nghĩ ông này tính hay thiệt, làm ăn kỹ thiệt, ông này trí tuệ thật!” Trí tuệ này là trí tuệ ngu si, đưa mình đi vào chỗ chết, đưa mình vào chỗ khổ, chứ chưa phải đưa mình vào cái chỗ giải thoát.

Cho nên ở đây, sự tu tập của đạo Phật là trí tuệ đạo đức. Bây giờ khả năng của tôi, tôi là một người kinh doanh, tôi sẽ mở ra những nhà máy, một cái nhà hàng, một cái khu du lịch nè. Tôi sẽ lấy cái đồng tiền này, không phải vì cá nhân của tôi đâu, mà tôi sẽ giải quyết cho bao nhiêu người thất nghiệp để vào cơ sở này làm, để giúp cho họ có cơm ăn, áo mặc, xóa đói giảm nghèo. Tôi nghĩ là vì sự đau khổ của những người thất nghiệp, tôi làm công việc này, tôi có khả năng tôi làm được, tôi có vốn, tôi bỏ ra tôi làm được.

Tôi làm việc này, không phải gì tôi làm giàu thêm cho tôi đâu. Cho nên, những nhân viên mà vào đây, tôi trả lương đủ sống, một triệu, hai triệu bạc để cho họ đủ sống nuôi gia đình họ đầy đủ. Cho nên từ đó, tôi mới tự suy nghĩ như vậy, tôi là thiện pháp có trí tuệ. Tôi cũng làm ăn, nhưng mà làm ăn, không phải vì cá nhân của tôi, mà tôi làm ăn vì sự đau khổ của mọi người khác. Cho nên, trí tuệ này là trí tuệ của người có đạo đức, phải hiểu được cái trí tuệ.

Còn nhiều khi mình bỏ vốn ra mình lo làm ăn, làm giàu, làm có, mình bóc lột công nhân. Có mấy ông chủ, mấy ông giám đốc, thật sự ra rất nhiều những cái nạn này, thì chẳng khác nào như một cái người ngồi đó đói, mà tính đi bắt gà người ta, đi tính ăn trộm gạo, trộm lúa người ta, thì cái ông mà giám đốc này có thua gì không, cũng vậy thôi. Cho nên, cách thức khéo léo của họ thôi. Như vậy, những người này là những người không trí tuệ, vì cá nhân của họ mà làm hại tất cả mọi người khác. Đó là một cái sai, cái không đúng.

Cho nên ở đây, đạo Phật dạy chúng ta, đạo đức ở đâu là trí tuệ ở đó. Đạo đức thì không làm khổ người, không làm khổ mình. Cho nên, đâu có làm khổ người, đâu có bóc lột nhân công. Cho nên nhân công vẫn đủ sống, có tiền mưu sống, xóa đói được giảm nghèo, tạo được công ăn việc làm cho họ, thì như vậy rõ ràng là ông giám đốc này, ông chủ này rất là tốt, người có đạo đức.

(58:21) Hôm nay, vì chỗ căn bản của Phật pháp như vậy, quý cư sĩ hãy hướng về đạo phật là phải hướng về đạo đức, Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả, đó là cái điều duy nhất. Cần phải đọc những cuốn sách dạy về đạo đức. Đầu tiên, các cư sĩ hãy đọc những cuốn sách của đạo Phật, “Kinh Pháp Cú” là của lời Phật nói ngày xưa, mà bây giờ người ta còn nhớ được những câu đó, bởi vì nó vừa ngắn, vừa gọn. Nó là những bài kệ.

Cái thứ hai là hãy đọc mười điều lành của Phật, tức là Thập thiện. Thập Thiện là mười điều lành, mà người nào giữ trọn được mười cái điều lành, gọi là người trời. Nghĩa là không có cõi trời, cõi vô hình mà có con người ở thế gian này sống mười điều lành, người đó là người trời. Còn người ở thế gian này, mà sống năm điều lành, thì người đó là con người thật sự là con người. Dưới năm điều này là làm con thú vật, là một loài động vật, mặt người mà loài thú, chứ không phải là con người thật sự.

Cho nên, chúng ta biết được trong kinh sách của Phật đã xác định được Trời, con Người, Atula, và Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục. Tất cả sáu cái nẻo luân hồi này, là ngay cuộc sống của chúng ta đã phân biệt được những giai cấp đó, đã được những cõi đó, để mà thấy được con người của chúng ta và những loài chúng sanh. Cho nên, đừng đi tìm cái thế giới siêu hình nào ở đâu mà gọi là cõi Trời, hay là thế này, thế khác mà ngay nơi cõi chúng ta. Nhưng cõi Tời chúng ta có được không, chưa có người nào sống Thập Thiện hết, cõi Người chúng ta còn tìm chưa ra, huống hồ là cõi trời, thật là khó vô cùng.

Hôm nay đủ duyên đến đây được nghe Thầy giảng về Đạo Đức. Thầy ở đây nói đạo đức, nhưng mà chưa đi sâu vào tri kiến đạo đức, sau này có được dịp, đọc bộ sách “Đạo Đức Làm Người”. Đến đây, các con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không, chúng ta hãy dừng lại đây.

HẾT BĂNG


Trích dẫn - Ghi chú - Copy